TRỞ VỀ VỚI ĐIỀU CỐT LÕI: LINH HƯỚNG VÀ ĐÀO TẠO LƯƠNG TÂM

TRỞ VỀ VỚI ĐIỀU CỐT LÕI:

LINH HƯỚNG VÀ ĐÀO TẠO LƯƠNG TÂM

 

Gần đây, một vị giám mục đến từ vùng Trung Tây đã cung cấp một minh họa hoàn hảo cho những suy tư của chúng ta thông qua câu chuyện về một chủng sinh trẻ. Vị giám mục đã cử chàng trai này tham gia một chương trình đào tạo tâm linh có uy tín. Khi được hỏi về những tri kiến sâu sắc đạt được từ chương trình, chàng chủng sinh chỉ đơn giản trả lời: “Thiên Chúa Cha yêu thương con.” Dù câu trả lời có vẻ căn bản, nhưng đối với chủng sinh này, đó chính là khởi điểm của hành trình đời sống nội tâm.

Sẽ là một nhận định sai lầm khi cho rằng những ứng viên ban đầu đến với chúng ta đều nắm bắt được bản chất của đời sống nội tâm. Trong nhiều trường hợp, nền văn hóa hậu hiện đại và xu hướng thế tục hóa ngày càng gia tăng đã để lại những ảnh hưởng quá sâu đậm. Thay vì hướng đến việc thấu hiểu bản thân – một tiền đề thiết yếu của đời sống nội tâm, con người hiện đại lại sa vào việc đắm chìm trong những mối bận tâm về bản thân một cách hời hợt. Trong bối cảnh đó, việc kiến tạo một lương tâm Kitô giáo đúng đắn sẽ đóng vai trò như một phương thuốc hữu hiệu để chữa lành những khiếm khuyết văn hóa này, đồng thời trở thành một trong những yếu tố then chốt để phát triển đời sống nội tâm sâu sắc.

1. Ôn lại những Điều Căn Bản

Giáo huấn của Giáo hội cung cấp nhiều suy tư sâu sắc về ý nghĩa của lương tâm và tầm quan trọng của việc đào tạo lương tâm. Trong một đoạn văn được trích dẫn nhiều nhất, Gaudium et Spes dạy rằng: “Lương tâm là nơi thâm sâu nhất và là thánh điện của con người. Ở đó, con người một mình đối diện với Thiên Chúa, tiếng Người vang vọng trong thẳm sâu tâm hồn.” (số 16). Do vậy, lương tâm là trải nghiệm về một luật không phải do chúng ta tự đặt ra – mà là luật được Thiên Chúa khắc ghi trong tâm hồn. Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo còn giải thích thêm rằng lương tâm “cũng phán đoán những lựa chọn cụ thể, chấp thuận những điều thiện và lên án những điều ác” (số 1777). Tuân theo luật nội tâm này chính là phẩm giá của con người (GS, số 16).

Có lẽ không đâu thể hiện rõ mối quan hệ giữa lương tâm với phẩm giá con người và đời sống nội tâm bằng ba chức năng của lương tâm. Những chức năng này tương ứng với ba phần của linh hồn mà theo Peter Kreeft là: trí tuệ hay lý trí (chức năng suy luận), ý chí (chức năng tự nguyện) và cảm xúc (chức năng trực giác) (2001, tr. 187). Chức năng suy luận của lương tâm mang lại nhận thức về thiện và ác. Chức năng tự nguyện tạo ra khát khao hướng thiện và ghê tởm điều ác, trong khi chức năng trực giác mang đến cảm giác hân hoan khi làm điều thiện và bất an khi làm điều sai trái. Ba năng lực này đóng vai trò then chốt trong diễn trình của đời sống nội tâm. Việc linh hướng có năng lực sẽ liên tục cố gắng thu hút và, khi cần thiết, hoán cải những năng lực này nơi các ứng sinh của chúng ta.

2. Đào tạo Lương tâm

Việc thu hút ba năng lực này liên quan đến việc đào tạo lương tâm. Sách Giáo Lý gợi ý rằng trong việc đào tạo này, Lời Chúa là ánh sáng soi đường cho chúng ta, thập giá là tiêu chuẩn của chúng ta, các ơn Chúa Thánh Thần là sự trợ giúp của chúng ta, chứng từ hay lời khuyên của người khác là sự hỗ trợ thêm và giáo huấn có thẩm quyền của Giáo hội là kim chỉ nam của chúng ta (số 1785). Điều đáng nói là vị linh hướng có thể giúp chủng sinh trong mỗi điều này như thế nào.

Các vị linh hướng phải giúp các ứng viên linh mục thực sự yêu mến Lời Chúa. Một chút ngọn lửa của ngôn sứ Giêrêmia phải được thắp lên nơi tất cả những người được trao phó cho sự chăm sóc của chúng ta. “Gặp được lời Chúa, con đã nuốt vào; lời Chúa trở nên niềm hoan lạc cho con, và là niềm vui cho tâm hồn con” (Gr 15:16). Việc dạy kỷ luật cổ xưa về lectio divina, phương pháp suy niệm của thánh Inhaxiô, hay phương pháp sống Lời Chúa phổ biến hơn trong thời đại hiện nay của phong trào Focolare đều là những cơ hội để giúp các ứng viên của chúng ta được soi sáng bởi Lời Chúa một cách thánh thiện.

Dưới ánh sáng Lời Chúa, Thánh giá trở thành tiêu chuẩn của một lương tâm được đào tạo tốt. Thông qua việc đào sâu hiểu biết về Bí tích Hòa giải, nhận thức về tầm quan trọng của đời sống thống hối, giá trị cứu độ của đau khổ nhân loại, và lòng quyết tâm hy sinh cùng thực thi các việc bác ái, thực tại của Thánh giá được khắc ghi sâu đậm hơn trong tâm hồn của chủng sinh. Việc năng lãnh nhận Bí tích Giải tội giúp phục hồi ý thức về tội lỗi – điều gần như đã mất đi trong nền văn hóa trần tục mà từ đó nhiều ứng sinh ưu tú của chúng ta xuất thân. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc nhở chúng ta rằng từ Bí tích Hòa giải tuôn trào ra “ý thức khổ chế và kỷ luật nội tâm, tinh thần hy sinh và từ bỏ, sự chấp nhận làm việc vất vả và vác thập giá” (1984, số 48). Ý thức khổ chế này nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc đền tội trong đời sống của chủng sinh và linh mục. Nếu thiếu điều này, dù có những kỹ năng xuất sắc đến đâu, chúng ta vẫn chỉ là một “người tốt bụng” hay một viên chức được đào tạo chuyên nghiệp mà thôi. Tâm hồn của một linh mục là tâm hồn thống hối. Trong tâm hồn thống hối ấy, đau khổ được nhìn nhận như một phần trong cuộc Thương khó của Chúa Kitô. Những hy sinh và việc bác ái, dù đôi khi phải chấp nhận những khó khăn và thiệt thòi cá nhân, chính là cách diễn tả ngôn ngữ của tình yêu. Quả thật, tiêu chuẩn của Thánh giá làm cho tâm hồn con người ngày càng nên đồng hình đồng dạng với Thánh Tâm Chúa Kitô.

Nếu Bí tích Giải tội giúp chúng ta đón nhận ân sủng từ Thánh giá, thì việc tìm về ý nghĩa sâu xa hơn của Bí tích Rửa tội và Thêm sức giúp chúng ta được trang bị các ơn Chúa Thánh Thần như một sự trợ giúp đặc biệt trong việc đào tạo lương tâm. Việc đón nhận ân sủng từ việc gia nhập trọn vẹn vào Dân Thiên Chúa, trân quý bản thân như đền thờ của Chúa Thánh Thần, và nhận ra vị trí độc đáo của mình trong Nhiệm Thể Chúa Kitô đã định hình một cách mạnh mẽ cốt lõi bên trong của mọi Kitô hữu, nhưng đặc biệt là của người được kêu gọi làm linh mục. Trong thực tại của Giáo hội, những chứng từ sống động đến từ đám mây nhân chứng trung thành – những người đang hiện diện cùng chúng ta trên trần thế này và những vị đã về Nước Thiên Chúa – là những khích lệ mạnh mẽ giúp chúng ta nỗ lực làm điều thiện và tránh điều ác.

Trong việc đào tạo lương tâm, khi lấy giáo huấn có thẩm quyền của Giáo hội làm kim chỉ nam, vị linh hướng có cơ hội giúp chủng sinh phát triển một cách lành mạnh về đức vâng phục. Trong từ vựng Kitô giáo ngày nay, có lẽ “đức vâng phục” là từ bị hiểu sai nhiều nhất. Người ta thường nghĩ đến hình ảnh biếm họa của những con thú cưng một cách mù quáng đi theo chủ nhân. Tuy nhiên, trong những phút giây sáng suốt, tất cả chúng ta đều nhận ra rằng từ này đơn giản chỉ có nghĩa là “sự sẵn sàng để được học hỏi”. Đức vâng phục không có nghĩa là thiếu khả năng hay không muốn suy nghĩ phản biện hoặc đặt câu hỏi một cách chân thành. Ngược lại, những phẩm chất này còn làm cho đức vâng phục thêm phong phú, giúp chúng ta đón nhận kho tàng khôn ngoan được tích lũy qua hai thiên niên kỷ của đời sống và cầu nguyện Kitô giáo. Điều này được thể hiện rõ nét qua việc chủng sinh sẵn sàng đặt niềm tin vào chương trình đào tạo mà họ đang theo học.

Như văn kiện “Hướng dẫn về việc Sử dụng Tâm lý học trong việc Thu nhận và Đào tạo Ứng sinh Linh mục” (2008) của Bộ Giáo dục Công giáo đã chỉ ra: “Nhiệm vụ của vị linh hướng không hề đơn giản, dù là trong việc phân định ơn gọi hay trong lĩnh vực lương tâm” (tr. 14). Và trong bối cảnh thời đại hiện nay, nhiệm vụ này còn trở nên phức tạp hơn nữa.

3. Hoàn cảnh của Thời đại

Các Giám mục Hoa Kỳ đã khuyến cáo chúng ta trong Chương trình Đào tạo Linh mục (ấn bản thứ 5, 2006) rằng “sự yếu kém của các tiêu chuẩn đạo đức và chủ nghĩa tương đối luân lý có tác động xói mòn đến đời sống công cộng của người Mỹ… Môi trường đạo đức này đã ảnh hưởng đến chính Giáo hội” (số 12). Như một đồng nghiệp cũ và rất được quý trọng trong công việc đào tạo linh mục thường nói: “Nếu nó ở ngoài kia, thì nó cũng ở trong này.” Chúng ta sống trong cái mà nhà triết học và nhà khoa học xã hội Christopher Lasch gọi là “văn hóa của chủ nghĩa tự tôn.” Cảm xúc và quan điểm cá nhân đã trở thành tiêu chuẩn cao nhất của ý nghĩa và chân lý. Một thế giới quan mới đã được tạo ra mà nhà tâm lý học Paul Vitz gọi là “văn hóa tự kỷ.” Trong thời xa xưa, Bernard thành Clairvaux đã nhắc nhở chúng ta: “Tìm được nhiều người thế gian đã hoán cải từ xấu sang tốt còn dễ hơn là tìm được một tu sĩ đã tiến bộ từ tốt đến tốt hơn. Người nào đã vươn lên được một chút trên trạng thái mà họ đã từng đạt được trong đời sống tu trì quả thật là một con chim rất hiếm” (1953, tr. X). Khắc nghiệt ư? Vâng, nhưng cố ý như vậy để làm rõ một điểm. Chúng ta đã đi xa khỏi cam kết có ý thức với chân lý khách quan trong việc đào tạo lương tâm. Chúng ta đã đánh mất tầm nhìn về việc lương tâm phải phục tùng chân lý.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề xuất một giải pháp thay thế cho sự yếu kém của các tiêu chuẩn đạo đức và chủ nghĩa tương đối luân lý này trong thông điệp vĩ đại Veritatis Splendor. Đáng để trích dẫn dài:

Như thấy rõ ngay lập tức, cuộc khủng hoảng về chân lý không tách rời khỏi sự phát triển này [chủ nghĩa tương đối]. Một khi ý niệm về chân lý phổ quát về điều thiện mà lý trí con người có thể nhận biết bị đánh mất, thì tất yếu khái niệm về lương tâm cũng bị thay đổi. Lương tâm không còn được xem xét trong thực tại nguyên thủy của nó như một hành vi của trí tuệ con người, có chức năng áp dụng kiến thức phổ quát về điều thiện vào một tình huống cụ thể và do đó diễn tả một phán đoán về cách ứng xử đúng đắn phải chọn ở đây và bây giờ. Thay vào đó, có khuynh hướng trao cho lương tâm cá nhân đặc quyền tự độc lập xác định các tiêu chí của thiện ác và sau đó hành động theo đó. Quan điểm như vậy khá phù hợp với một đạo đức cá nhân chủ nghĩa, trong đó mỗi cá nhân phải đối mặt với chân lý của riêng mình, khác với chân lý của người khác. Khi được đưa đến hệ quả tột cùng, chủnghĩa cá nhân này dẫn đến việc phủ nhận chính ý niệm về bản tính con người. (số 32)

Trong chủ nghĩa tự kỷ cá nhân này, các chủng sinh có khuynh hướng xây dựng một Giáo hội và sứ vụ linh mục theo ý riêng của họ, “chất chồng,” như thánh Phaolô nói với Timôthê, “những giáo huấn hợp với sở thích của họ” (2 Timôthê 4:3). Khuynh hướng này thường thể hiện qua việc bận tâm quá mức về “thời gian nghỉ ngơi” hoặc việc dành mình hoàn toàn hay chủ yếu cho những dự án yêu thích mà bỏ qua những nhu cầu cấp bách hơn nhưng ít thỏa mãn cá nhân. Nếu không được thách thức, đặc biệt là bởi lời khuyên khôn ngoan của vị linh hướng, những khuynh hướng này có thể cuối cùng dẫn đến việc sống đời linh mục đơn thuần theo điều kiện của riêng mình. Trong bối cảnh như vậy, đối với một số chủng sinh, thời gian chủng viện trở thành giai đoạn sáng tạo hơn là đào tạo.

Trong “Báo cáo về các Chủng viện Hoa Kỳ” (15 tháng 12 năm 2008), có một trích dẫn từ bài phát biểu năm 1962 của Chân phước Gioan XXIII với các vị linh hướng chủng viện, vừa mang tính hướng dẫn vừa truyền cảm hứng. “Chủng sinh trẻ sẽ không bao giờ biết cách thực hành tự chủ, nếu họ không học được cách tuân thủ và yêu mến một quy luật nghiêm ngặt, rèn luyện họ trong việc hãm mình và làm chủ ý riêng. Nếu không, trong việc thi hành đầy đủ sứ vụ, họ sẽ không sẵn sàng vâng phục Giám mục của mình một cách trọn vẹn và hân hoan.”

4. Đối diện với Hoàn cảnh

Vị linh hướng có thể là một sự trợ giúp đáng kể cho các ứng sinh khi họ đối diện với những hoàn cảnh của sự yếu kém đạo đức và chủ nghĩa tương đối luân lý này. Một lần nữa, các Giám mục Hoa Kỳ trong Chương trình Đào tạo Linh mục nhắc nhở chúng ta:

Vị linh hướng nên thúc đẩy sự hội nhập giữa việc đào tạo thiêng liêng, việc đào tạo nhân bản và việc phát triển nhân cách phù hợp với việc đào tạo linh mục. Vị linh hướng giúp chủng sinh có được các kỹ năng phân định thiêng liêng và đóng vai trò then chốt trong việc giúp chủng sinh phân định xem họ có được kêu gọi làm linh mục hay được kêu gọi theo một ơn gọi khác trong Giáo hội. (2006, số 129)

Nói cách khác, một thành tố quan trọng trong việc đào luyện đời sống thiêng liêng tại chủng viện là giúp chủng sinh phát triển lương tâm của một linh mục, một lối sống đích thực của linh mục và cuối cùng là một con tim linh mục. Trong suốt tiến trình dài lâu và đôi lúc gian nan này, một chủng sinh có thể phản bác rằng: “Nhưng cha muốn con trở thành một người không phải là con.” Mặc dù mỗi vị giám đốc sẽ có cách riêng để đáp lại những phản bác như thế, câu trả lời cuối cùng vẫn là một lời khẳng định cương quyết nhưng rõ ràng: “Đúng vậy, cha muốn thế – đó chính là lý do tại sao tiến trình này được gọi là đào luyện. Con đang được đào luyện để trở thành một con người mà hiện tại con chưa phải là.”

Mặc dù các chủng sinh, các linh mục giáo xứ, các thành viên trong gia đình và bạn bè đều đóng một vai trò trong việc đào luyện này, nhưng ảnh hưởng chính yếu được thực thi bởi các vị linh hướng và các thành viên khác trong ban giảng huấn chủng viện. Do đó, việc xem xét lại một cách vắn tắt quan điểm của Giáo hội về ban giảng huấn chủng viện là điều đáng quan tâm.

Giáo huấn của Công đồng Vatican II trong sắc lệnh Optatam totius về việc đào tạo linh mục đã nêu rất rõ về đặc tính và nghĩa vụ của ban giảng huấn chủng viện. Các thành viên ban giảng huấn phải được chọn lựa từ những người xuất sắc nhất trong hàng linh mục giáo phận, được chuẩn bị kỹ lưỡng với giáo lý vững chắc, kinh nghiệm mục vụ thích hợp, và được đào tạo đặc biệt về sư phạm và đời sống tâm linh. Ban giảng huấn cần ý thức sâu sắc rằng tư tưởng và hành động của chính mình ảnh hưởng đến kết quả việc đào luyện các chủng sinh như thế nào. Câu châm ngôn xưa “Người ta giảng bằng đời sống hiệu quả hơn bằng môi miệng” là một điểm hữu ích để xét mình cho tất cả những người tham gia công tác đào luyện.

Sắc lệnh của Công đồng còn chỉ dạy rằng dưới sự lãnh đạo của cha Giám đốc, ban giảng huấn phải tạo nên một sự hài hòa chặt chẽ nhất về tinh thần và cách hành xử. Việc có một tầm nhìn thống nhất về đào luyện theo đường hướng của Giáo hội là điều thiết yếu để có thể cung cấp cho các chủng sinh một chương trình đào tạo linh mục vừa rõ ràng vừa vững chắc.

Yếu tố cuối cùng trong trách nhiệm của ban giảng huấn có lẽ là điều dễ bị bỏ qua nhất, đặc biệt là trong các chủng viện giáo phận. Cùng với các chủng sinh, ban giảng huấn phải tạo nên một gia đình đáp lại lời kêu gọi của Chúa: “Để tất cả nên một”, và làm cho niềm vui ơn gọi trong mỗi chủng sinh thêm sâu đậm (Optatam totius, 1965, số 5). Thời kỳ đào luyện đại trà rõ ràng đã qua, không chỉ vì hiện nay ít có chủng viện nào có số lượng lớn chủng sinh, mà còn vì việc đào luyện trong hoàn cảnh hiện tại đòi hỏi sự tương tác cá nhân và trực tiếp nhiều hơn bao giờ hết. Một thành viên ban giảng huấn chỉ chăm chỉ dạy học rồi vắng bóng khỏi sinh hoạt cộng đoàn chủng viện, có thể được đánh giá cao về mặt đóng góp trí thức cho chủng viện. Tuy nhiên, điều này cho thấy người ấy đang không quan tâm đến những khía cạnh then chốt khác trong sứ mệnh đào luyện linh mục. Nếu những nguyên tắc này đúng với toàn thể ban giảng huấn, thì chúng lại càng cấp thiết và đặc biệt quan trọng đối với các vị linh hướng.

5. Các Chiến lược Cụ thể

Những trách nhiệm của ban giảng huấn chủng viện chắc chắn là một thách thức to lớn, nhưng không nhất thiết phải quá nặng nề. Có ba phương thức cụ thể có thể giúp vị linh hướng hoàn thành trách nhiệm đào luyện lương tâm linh mục nơi các chủng sinh.Trước hết, cần tạo nên bầu khí thinh lặng sâu xa hơn, cả bên ngoài lẫn bên trong. Nói một cách đơn giản, các chủng viện, cơ sở đào tạo và nhà tập của chúng ta hiện nay quá ồn ào. Chương trình đào luyện tâm linh phải giúp các chủng sinh không chỉ quý trọng mà còn yêu mến sự thinh lặng, để trong đó họ có thể nghe được tiếng Chúa và đáp lại không chút xao lãng: “Lạy Chúa, con đây, con đến để thực thi ý Chúa.”Thứ hai, vị linh hướng phải khơi dậy nơi các chủng sinh một khát khao chân thành về đời sống nội tâm, qua lời giảng dạy và gương sáng của mình. Sách Giáo Lý định nghĩa đời sống nội tâm này là khả năng suy tư, tự xét mình và nội quan (số 1779). Lòng yêu mến đời sống nội tâm giúp các chủng sinh tránh được lối sống manh mún, trong đó tâm hồn cứ nhảy từ trải nghiệm này sang trải nghiệm khác (dù nhiều trải nghiệm rất bổ ích) mà không có đủ thời gian và thinh lặng để suy niệm về những trải nghiệm đó một cách có ý nghĩa.

Chiến lược cuối cùng dành cho các vị linh hướng là nuôi dưỡng nơi mỗi chủng sinh một tình yêu đối với Giáo hội vượt trên mọi quyết tâm thực hiện các kế hoạch cá nhân. Cách đây nhiều năm, một chủng sinh giáo phận đang cố gắng nghiêm túc và sốt sắng về việc đào tạo của mình đã phân định việc gia nhập một dòng tu chiêm niệm nghiêm ngặt. Khi sắp gia nhập, một trong các đan sĩ, một người lớn tuổi hơn và thực sự thánh thiện, đã giúp chủng sinh nhận ra đây là kế hoạch của chàng thanh niên cho cuộc đời mình, chứ không phải là ý Chúa dành cho anh. Mặc dù khó khăn và buồn khi chấp nhận, người thanh niên đã được dẫn dắt để yêu mến ý Chúa và nhu cầu của Giáo hội địa phương của mình hơn là các kế hoạch của anh. Một vị linh hướng có năng lực có thể là một sự trợ giúp to lớn trong việc giúp chủng sinh nhận ra rằng thiện ích của bản thân và thiện ích của Giáo hội không bao giờ nên đối lập nhau.

6. Bối cảnh Tổng luận

“Xuyên suốt bài viết này, trách nhiệm của các vị linh hướng trong việc giúp hình thành lương tâm của các ứng viên đã được xem xét từ góc nhìn đặc thù của đội ngũ đào tạo. Có một yếu tố vẫn luôn được ngầm hiểu, nhưng trong phần kết luận cần phải trở thành bối cảnh tổng thể cho cuộc thảo luận của chúng ta. Yếu tố này bắt nguồn từ cái nhìn sâu sắc ban đầu của Gaudium et Spes. Trong lương tâm mình, con người chỉ có một mình với Thiên Chúa. Bối cảnh cuối cùng của cuộc thảo luận này phải là sự tin tưởng của vị linh hướng vào sự hiện diện của Thần Khí Thiên Chúa trong mọi buổi linh hướng. Thông qua việc cầu nguyện và phân định của chính mình cho từng ứng viên mà họ gặp, vị linh hướng phải tin tưởng vào sự tác động của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn của ứng viên và trong sự hướng dẫn của mình.

Một lần nữa, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đưa ra những chỉ dẫn rất hữu ích về vấn đề này, như ngài đã viết trong Veritatis splendor (1993):

Trong tâm hồn của mọi Kitô hữu, nơi thẳm sâu nhất của mỗi con người, luôn vang vọng câu hỏi mà người thanh niên trong Tin Mừng đã từng hỏi Chúa Giêsu: ‘Thưa Thầy, con phải làm gì lành để được sự sống đời đời?’ Và khi các Kitô hữu đặt ra câu hỏi xuất phát từ lương tâm của họ, Chúa đáp lại bằng những lời của Giao Ước Mới đã được trao phó cho Giáo Hội Người… Câu trả lời của Giáo Hội cho thắc mắc của con người chứa đựng sự khôn ngoan và quyền năng của Đức Kitô chịu đóng đinh… Chân Lý tự hiến mình. (số 117)

Chỉ có chân lý ấy mới giải phóng đội ngũ đào tạo để chúng ta có thể hiến mình cho sứ vụ linh mục và đào tạo người khác hướng tới sự tự hiến tương tự.”

 

Bibliography

Bernard of Clairvaux. (1953). “Letter 171” in The Letters of Bernard of Clairvaux. Bruno Scott James, editor. Chicago: Regnery.
John Paul II. (December 2, 1984). Reconciliation and Pen-

ance. Retrieved from http://www.vatican.va/holy_father/ john_paul_ii/apost_exhortations/documents/hf_jp-ii_ exh_02121984_reconciliatio-et-paenitentia_en.html.

John Paul II. Veritatis splendor. (August 6, 1993). Retrieved from http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/ encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_06081993_veritatis- splendor_en.html

Kreeft, Peter. (2001). Catholic Christianity. San Franscisco: Ignatius Press.

Paul VI. Optatam totius. (October 28, 1965). Retrieved
from http://www.vatican.va/archive/hist_councils/ii_vati- can_council/documents/vat-ii_decree_19651028_optatam- totius_en.html

United States Council of Catholic Bishops. (2006). Program of Priestly Formation (5th edition). Retrieved from http:// www.usccb.org/vocations/ProgramforPriestlyFormation.pdf

                                                                                

                                                                                 Tác giả: Thomas Caserta

                                                                      Chuyển ngữ: Lm. JB. Đỗ Trọng Năng

Nguồn: https://seminaryjournal.com/wp-content/uploads/2018/10/SJWinter09.pdf

Về tác giả: Đức Ông Thomas Caserta có bằng cao học về thần học và tư vấn mục vụ và là cha sở Giáo xứ Thánh Bernadette ở Brooklyn, New York. Ngài là phó giáo sư thỉnh giảng tại Đại học St. John, New York.