HẠNH THÁNH PHAO-LÔ LÊ BẢO TỊNH

QUAN THẦY ĐẠI CHỦNG VIỆN THANH HÓA 

“Anh em ở lại bình an, chịu khó giữ Đạo và can đảm bền vững, đừng sợ nhé”

Phaolô Lê Bảo Tịnh sinh năm 1793 tại Giáo xứ Trinh Hà – Giáo phận Thanh Hoá, nay thuộc xã Trinh Hà, huyện Hoàng Hoá, tỉnh Thanh Hoá, là con thứ ba trong gia đình công giáo đạo đức.

Năm 12 tuổi cậu vào ở với cha Duệ xứ Bạch Bát, sau ba năm cậu được cha gởi đi học tại Chủng Viện Vĩnh Trị (Nam Định). Trong chủng viện cậu là một chủng sinh gương mẫu, có khuynh hướng sống ẩn tu. Chính vì thế thầy tích trữ cơm khô, âm thầm rời bỏ chủng viện vào sâu trong rừng vắng để ẩn tu trong cô tịch. Nhưng Đức Cha Longer Gia đã chỉ thị cho các cha trong giáo phận : “Nếu thày Tịnh đến xưng tội, không linh mục nào được quyền giải tội, phải bảo thày đến gặp Đức Cha ngay”. Vâng lời Bề Trên, Thầy Tịnh trở về tiếp tục học thần học, lãnh các chức nhỏ, và dạy học.

Năm 1837, Đức Cha đề ra chương trình truyền giáo tại Lào, thầy Tịnh đã hăng hái lên đường. Sau một năm làm việc tại Lào với nhiều kết quả tốt đẹp khiến Thầy về xin thêm người. Thế nhưng tình hình trong nước đã thay đổi. Thi hành lệnh Vua quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh lúc đó ra lệnh cấm đạo gắt gao. Vì vậy đoàn truyền giáo ở Lào phải dừng lại và trở về nước, chuẩn bị nhận công tác mới.

Cuối năm 1841,  thày Tịnh bị bắt tại xứ Bích Trì và được giải về Tuần phủ Hà Nam, rồi lên Hà Nội. Quan quyền đệ án về kinh xin trảm quyết. Nhưng, từ khi vua Thiệu Trị lên ngôi, bầu khí ác cảm với đạo đã giảm đi. Sáu lần quan đệ án vào kinh, cả sáu lần không được chấp thuận, để đến lần thứ bảy chuyển thành án lưu đày chung  thân ở Phú Yên (Bình Định).

Vua Thiệu Trị băng hà (04-11-1847). Vua Tự Đức lên kế ngôi và ban ân xá, giải phóng tù nhân. Trở về giáo phận trong niềm vui khôn xiết của nhiều người, thày Tịnh vâng lời Đức Cha lãnh chức linh mục, khi đã 56 tuổi. Khoảng một năm sau, vị tân linh mục được giữ chức giám đốc kiêm giáo sư Chủng viện Vĩnh Trị. Trong thời gian này đã biên soạn các tác phẩm: Phúc âm dẫn giải, Giáo lý đại cương và Lục vấn lương tâm.

Ngày 27-02-1857 cha Tịnh bị quan phủ Nghĩa Hưng bắt lần 2 tại Chủng Viện Vĩnh Trị. Cha Tịnh bị giam ở Trại Vệ tỉnh Nam Định chờ Nhà Vua trả lời bản án. “Xét rằng Lê Bảo Tịnh đã ngoài 60 tuổi, chiếu theo luật nước, không nên xử tử những người già nua tuổi tác như thế, xin cứ giam ở Nam Định và cứ giữ ở đó là tiện nhất”.

Ngày 05.04.1857, án ra tới tỉnh,  Vua cải án giam thành án tử hình trảm quyết. Nhận được bản án, quan Thượng cố gắng một lần chót bằng cách khuyến dụ cha Tịnh xuất giáo. Nhưng Cha từ tốn đáp lại lời quan: “Tôi xin chân thành cám ơn quan, vẫn luôn có lòng tốt tìm cách cứu tôi. Thân xác tôi ở trong tay quan, xin làm khổ nó tùy ý, tôi rất vui lòng, không oán than gì. Nó chết đi nhưng mai ngày sẽ sống lại trong vinh quang. Còn linh hồn tôi là của Thiên Chúa, không có gì làm tôi hy sinh nó được, không ai có thể lay chuyển lòng tin tưởng của tôi. Đạo Thiên Chúa là chính đạo, là đạo thật, tôi yêu mến và giữ đạo ấy từ thuở bé, và dù tôi có chết cũng chẳng bỏ được”.

Cha Phaolô Lê Bảo Tịnh được hưởng phúc tử đạo ngày 06.04.1857 tại pháp trường Bảy Mẫu (Nam Định) với lời từ biệt gởi tới mọi người : “Anh em ở lại bình an, chịu khó giữ đạo và can đảm bền vững, đừng sợ chết nhé”.

Đức Thánh Cha Piô X đã suy tôn cha Phaolô Lê Bảo Tịnh lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909.

Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển Thánh.

Kính ngày 06 tháng 04 hằng năm.

 

HAI THƯ CỦA THÁNH LÊ BẢO TỊNH GỬI CHỦNG VIỆN KẺ VĨNH

THƯ THỨ NHẤT

(24.4.1843, dịch sang tiếng Pháp trong Le Clergé Tonkinois et ses Prêtres Martyrs xuất bản 1925 trang 80-83)

Tôi, Phaolô, đang bị xiềng xích vì Chúa Kitô, từ chốn lao tù xin gửi lời kính thăm anh em, và đây là những lời thăm hỏi cuối cùng. Nguyện xin Cha nhân ái và Chúa giầu lòng khích lệ đến an ủi anh em trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Chớ gì phép lành của Chúa sẽ là sương sa thấm gội và vun trồng việc học hành, gia tăng mức tiến cả về tu đức cả về kiến văn, để anh em mau đạt tới chỗ hoàn hảo, thành tài: có như thế, qua anh em, người bên lương sẽ được chúc phúc và trong họ sẽ được bảo toàn hương thơm tốt lành của anh em.

Từ hôm vào tù đến nay tôi chưa viết thăm anh em lần nào: sự kiện đó không phải vì biếng nhác hay là đã quên anh em, nhưng vì nhiều lý do, trong đó có cả sự lo sợ sẽ bị nguy hiểm, như anh em quá rõ. Nhưng trong chỗ đang bị giam bây giờ, tôi tìm ra được một cơ hội chắc chắn, do đó tôi vội vàng viết những dòng này, để đưa tin về tôi và nói lên sự cảm mến tôi vẫn dành cho anh em.

Ở trong tù tôi vẫn nhớ anh em và ngày nào cũng cầu nguyện cho anh em, xin Chúa đã khởi sự cho anh em biết thánh ý Ngài, thì xin Ngài tiếp tục thực thi và kiện toàn thánh ý đó trong anh em.

Để anh em khỏi mong chờ, tôi xin tường thuật những gian lao khốn khó tôi đang phải chịu, nhưng với mục đích là thêm lòng kính mến mà anh em sẽ cùng tôi ca ngợi Thiên Chúa, vì muôn đời Ngài vẫn là Đấng từ bi nhân hậu.

Lao tù này, quả thực là hình ảnh sống động của hỏa ngục đời đời. Ngoài xiềng xích gông cùm còng chân tay, còn có giận dữ, oán thù, nguyền rủa, tục tĩu, cãi lộn, bậy bạ, chửi thề, nói hành, và sau đó là chán nản, buồn sầu, ruồi muỗi, chấy rận, bọ mát, nhất là những con rệp chui rúc trong bao gối, chăn chiếu, quần áo… rất khó chịu. Còn có oán hận vua quan, thù ghét bạn hữu và chửi bới cha mẹ!

Nhưng Đấng mà đời xưa đã cứu thoát ba anh em trong lửa bừng bừng, Ngài vẫn ở bên tôi, cứu thoát tôi khỏi những tai họa nói trên, và biến tất cả thành êm dịu ngọt ngào, vì muôn đời Ngài vẫn là Đấng từ bi nhân hậu.

Viết những dòng này không phải để anh em khiếp sợ, hay phải nản lòng, nhưng để anh em hiệp thông với tôi, cùng hăng say trong mối tình tương thân tương ái, anh em cầu nguyện nhiều hơn cho tôi, vì anh em gần Chúa, có nhiều giờ đọc kinh, dự lễ, rước lễ bất cứ lúc nào. Anh em ở đồi Sion, đứng trên núi với Maisen, nếu anh em bỏ rơi những người đang bị lênh đênh trên mặt biển cả, hay đang chiến đấu trên bãi chiến trường, thì đâu còn là bác ái? Anh em khác nào những vị đình thần, hằng ngày sống trong hoàng triều vua cao cả, còn tôi là một chiến sĩ đang lúc giao tranh với địch thù, do đó xin anh em khẩn nguyện với Vua quyền năng dũng mạnh ban cho tôi đủ gan dạ chiến thắng. Xin thương tôi, xin thương đến tôi, hỡi anh em là các bạn hữu, vì tay Chúa đã đụng chạm đến tôi.

Ngoài những điều đã kể trên đây, còn có cảnh mùa hè nóng nực, mùa đông lạnh cóng. Tôi chưa bao giờ được nhìn thấy mặt trăng và ngôi sao, suốt cả năm không khi nào ngủ trọn một đêm, chỉ được một canh hai canh, vì canh nào cũng kiểm điểm số tù nhân bằng cách dùng cái mõ bằng gỗ đập mạnh vào nhau rồi hò: một hai ba…, các xiềng còng chân chật quá nên càng xiết vào da thịt, vì thế tù nhân không tài nào ngủ được tới sáng.

Tuy nhiên, tôi vẫn tạ ơn Chúa, vì các hình khổ bày ra để làm khổ tù nhân chứ phần tôi thì vẫn hân hoan, vì đâu tôi có đơn phương độc mã, nhưng là có Chúa Kitô ở cùng. Chính Ngài, Thày Chí Thánh, đã vác hết gánh nặng Thánh Giá, tôi chỉ ghé vai chịu một chút phần đuôi. Chúa không phải khách bàng quan chỉ đứng nhìn cuộc chiến, nhưng Chúa là chiến sĩ, là người chiến thắng kết liễu cuộc chiến. Do đó triều thiên vinh quang được đặt trên đầu vị chỉ huy, các chi thể tham gia vào sự vinh quang của Ngài.

Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa, khi Chúa thưởng công chúng con, chính là Chúa tán thưởng lòng từ bi và ân sủng của Chúa. Mặc dù đơn độc, nhưng vì Chúa, vì danh Chúa con sẽ cam chịu tất cả những gian lao khốn khó ở đời này cho tới hơi thỉ cuối cùng. Con tự thú: bản thân con là tôi tớ vô dụng, Chúa mới là Đấng duy nhất đáng mọi danh dự và vinh quang trên trời dưới đất, còn phần chúng con chỉ đáng hổ thẹn và hình phạt.

Lạy Chúa, Chúa ngự trên trời cao xa giữa muôn vàn thần thánh, còn phần con chứng kiến cái cảnh vua quan và các hạ cấp bất trung mỗi ngày thóa mạ danh Chúa, con sống làm sao cho đành! Xin Chúa thử nhìn coi thánh danh Con Chúa bị loài người xấu xa chê chối! Lạy Chúa, xin Chúa dành mọi vinh quang cho một mình Chúa, đừng nhường lại cho một người nào khác! Kìa ma quỉ được tôn lên mãi ngai vàng và đang được những ai quên Chúa thờ lạy. Kìa Thánh Giá Chúa đang bị người bất lương chà đạp dưới chân. Còn đâu là vinh quang của Chúa, còn đâu là nhân hậu Chúa viên mãn từ ngàn xưa? Trước cảnh tượng này, vì lòng kính mến Chúa, con hy sinh chịu chết, dù cho thân xác này có bị xé ra trăm mảnh, để chứng minh lòng con tha thiết yêu Chúa.

Lạy Chúa Kitô, chỉ một mình Chúa là Chúa, một mình Chúa là Đấng Tối Cao, Chúa ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Chúa là Chúa Tể mọi loài, Chúa đã cảm nghiệm vâng lời khó khăn thế nào! Mỗi ngày Chúa nhìn thấy tôi tới Chúa bị còng chân tay, bị đeo gông xiềng xích, bị đủ mọi thứ gian nan. Xin Chúa hãy biểu dương uy quyền của Chúa, xin hãy cứu thoát và nâng đỡ con, để trong thân xác yếu hèn này, cả trăm họ sẽ nhìn thấy và ca tụng sự dũng mạnh của Chúa, và nếu con có bị lao đao thì những kẻ thù của Chúa cũng không thể vì thế mà kiêu hãnh ngóc đầu lên!

Viết những dòng này để cho tâm hồn anh em khát khao được chết vì Chúa, và bằng lời cầu nguyện, anh em nâng đỡ tôi đang chiến đấu trên bãi chiến trường.

Với anh em là những người tôi quí mến, xin anh em nhớ rằng Đức Mẹ Maria phải được tuyên dương là Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo, mặc dù Ngài không thực sự bị gươm đâm thâu qua.

Anh em cũng có thể là Tử Đạo giống như thế, nghĩa là tử đạo trong tình yêu mến, tử đạo trong ước muốn, tử đạo trong đau khổ vì Chúa Kitô. Sự thánh thiện, sự hy sinh của anh em chính là tử đạo, là cứu rỗi các linh hồn. Sự nghèo khó cũng là tử đạo, sự trong trắng, thương người, tha thứ những xỉ nhục cũng là tử đạo, bởi vì Thiên Chúa không chỉ dành riêng nước Trời cho các vị Tử Đạo thực tế, nhưng còn hứa ban phúc đó cho những ai nghèo khó, thương người, trong sạch, hiếu hòa.

Nghe tường thuật những gì ở trên, anh em hãy hân hoan cảm tạ Thiên Chúa, Đấng ban phát mọi ơn lành, và cùng với tôi hãy tán tụng Ngài vì muôn đời Ngài vẫn là Đấng từ bi và nhân hậu.

Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, thần trí tôi vui mừng hớn hở vì Chúa đã nhìn đến phận hèn tôi tớ Ngài. Muôn đời các thế hệ tương lai sẽ khen rằng tôi có phúc, vì cho đến muôn đời Ngài vẫn là Đấng từ bi và nhân hậu.

Hỡi các quốc gia, hãy ca ngợi Chúa, hỡi mọi dân tộc, hãy chúc tụng Chúa, vì Ngài đã chọn sự yếu đuối để làm cho sự hùng mạnh phải bẽ mặt, đã chọn sự thầp hèn để lật đổ sự cao sang. Và qua miệng lưỡi tôi, Thánh Thần Ngài đánh bại những nhà triết lý môn đệ của Khổng Tử, vì muôn đời Ngài vẫn là Đấng từ bi và nhân hậu.

Những dòng chữ này viết về để phối hợp niềm tin anh em với niềm xác tín của tôi. Giữa lúc cuồng phong vũ bão, tôi thả neo níu chặt vào ngai Chúa. Đây là niềm tin tôi giữ mãi trong lòng.

Anh em thân mến, phải chạy đua làm sao để đoạt giải thắng, hãy cầm khí giới của Chúa mà vung hai bên tả hữu, hãy mặc mã giáp đức Tin như thánh Phaolô quan thầy của tôi đã căn dặn. Đối với anh em, thà đui một mắt và đau yếu mà vào nước trời còn hơn là lành mạnh chân tay mà bị xua đuổi ra ngoài.

Anh em thật hạnh phúc, vì mở mắt ra đã có Chúa hiện diện trong nhà, và từ buổi tinh sương đã có sẵn manna trên trời rơi xuống. Tôi khổ sở vì cứ bị đói khát thứ manna này. Trong nhà tù Hà Nội, trừ trường hợp phép lạ, chứ thực ra tôi cảm thấy cứ phải chết đi vì thiếu thứ manna này, cứ phải héo tàn vì không tìm đâu ra thứ nước của giếng Bêlem.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa nghe thấy những tiếng kêu nài thầm kín của các tín hữu, xin cứ giáng trên con mọi thứ tử hình, mọi đau khổ, cứ việc thiêu đốt, cứ việc cắt xén, nhưng xin Chúa đừng để con chịu khổ hình này!

Là sự sống, xin Chúa hãy đến. Là sự thật, xin Chúa hãy đến, đến trong tâm hồn con. Hãy thiêu đốt con bằng tình yêu của Chúa. Một khi đã được bừng lên trong ngọn lửa tình yêu, con sẽ can đảm chấp nhận để máu chảy tuôn rơi. Và nếu ở đời tạm gửi này con không được phúc lãnh Mình Máu Thánh Chúa nữa, thì ít ra con được xứng đáng kết hợp với Chúa và được hưởng Chúa đời sau.

Xin anh em cầu nguyện cho tôi mở trận thế công một cách chính đáng, đánh một trận quyết liệt và đánh cho tới cùng, kết thúc cuộc chạy đua. Và nếu giữa chúng ta không còn hân hạnh gặp nhau ở trần gian, thì ít ra chúng ta còn hy vọng tái ngộ ở thế giới bên kia.

Anh em mỗi ngày lớn lên thêm tuổi, xin Chúa ban cho anh em được thăng tiến trong sự thánh thiện, trong đường học vấn trước mặt Chúa, và mỗi lần nhớ đến tôi, xin Chúa làm thỏa những gì anh em ước nguyện.

Riêng phần em Phú thân mến, xin em nhớ những gì tôi đã dạy bảo hồi xưa và cố gắng thực hành: ăn ở làm sao để nên gương mẫu, đừng để miệng đời khinh khi tuổi thanh xuân của em. Hãy sống đàng hoàng với chính mình trước đã, rồi em sẽ đàng hoàng với người khác. Nếu bất lương với mình, làm sao có thể tốt với người khác?

Cả em Xuân thân mến, em thật là môn sinh, hãy chịu khó học hành, hãy yêu mến Thánh Kinh, vì là phương tiện đem sự cứu rỗi. Hơn nữa, hãy ngủ với Thánh Kinh, thức với Thánh Kinh. Hãy tỉnh thức giữ mình trước khi đề phòng cho anh em khác. Nếu ai để mình thiệt hòi thì hãy ráng chịu một mình, nhưng phải thi ân cho người khác.

Với toàn thể anh em thân mến, anh em hãy coi bức thư tâm huyết hôm nay như là một di vật sống động, là dấu chỉ mối tình thương nhau chân thành. Trong tương lai, ngày mà chúng ta tái ngộ gần tòa Con Chiên trong sạch, chúng ta sẽ cùng hòa âm ca tụng Ngài trong hoan lạc, trong khải hoàn trường cửu. Amen.

Xin vĩnh biệt tất cả anh em và từng người một. Nhớ cầu cho tôi.

Ngày 24.4.1843 tại nhà tù Hà Nội.

Tôi, Phaolô, đứa con mới đầy một tuổi, hiện là tù nhân vì Chúa Kitô.

(Ký tên: Phaolô Tịnh)

THƯ THỨ HAI

(ngày 24.3.1857, 12 ngày trước khi bị xử tử, trích trong Le clergé Tonkinois et ses Prêtres Martyrs, trang 94-95)

Tôi, Phaolô Tịnh, trong lao tù và bị xiềng xích vì Chúa Kitô, xin gửi lời kính thăm tất cả anh em: giáo sư và chủng sinh trường thánh Phêrô. Từ ngày Chúa Quan Phòng định cho tôi bị bắt xa anh em, kỷ niệm của anh em lúc nào cũng phảng phất trong tâm hồn tôi, và để minh chứng, hôm nay tôi xin gửi về anh em nỗi tâm sự.

Xin anh em cảm tạ Thiên Chúa nhân hậu vì những gì Ngài đã thực hiện nơi tôi. Chỉ trong giây phút, Ngài đã làm những điều mà chính tôi cũng như không một ai khác có thể đoán trước. Linh hồn tôi ca ngợi Chúa, và tâm thần tôi vui mừng trong Chúa là Đấng Cứu Độ tôi, vì Ngài đã nhìn đến phận hèn tôi tớ. Anh em hãy cảm tạ Chúa, vì Ngài nhân hậu và lòng nhân hậu của Ngài tồn tại muôn đời.

Giờ này chúng tôi ở giữa chiến trường rất cần đến anh em giúp đỡ. Hãy giúp chúng tôi bằng lời cầu nguyện, để Ngài hoàn tất nơi chúng tôi những gì Ngài đã khởi sự. Chú Lương, bạn học của anh em, mặc dù con người mảnh khảnh, đã tỏ ra rất can đảm trước mặt các quan chức. Tấm gương anh dũng và những lời nói đanh thép của chú đã tăng tinh thần rất nhiều cho hai ông chánh phó xã ủy cùng bị bắt với chúng tôi. Cả hai đều sẵn sàng chịu chết chứ không chối đạo. Tuy nhiên anh em đã biết: thần trí lanh lẹ chứ xác thịt thì yếu đuối. Anh em hãy cầu nguyện nhiều cho tôi và cho họ, đừng ai trong chúng tôi phải hổ thẹn mà thua cuộc. Ba bạn đồng hành của tôi, ngoài sự kiện phải đeo gông, ban đêm còn phải bị còng sắt nơi chân.

Riêng tôi thì chỉ có cảnh đeo gông. Đời sống trong lao tù nói ra thật khổ cho thân xác. Ngục giam chúng tôi hoàn toàn u tối, giữa ban ngày cũng không trông thấy gì. Đã tối tăm lại còn hôi tanh, muỗi đốt, nóng bức, nghẹt khói: để cho anh em có một ý niệm sơ sơ về cảnh khổ.

Tuy nhiên tôi vẫn tạ ơn Thiên Chúa, vì nhờ có sự yên lặng bao quanh, tôi cầu nguyện và suy niệm được dễ dàng. Tôi vẫn thầm xác tín rằng: không gì có thể làm cho tôi xa lìa tình thương của Chúa Giêsu Kitô, dù lao tù, dù đói khát, dù gươm giáo, dù sự chết, là vì chính Chúa Kitô là sự sống của tôi.

Tử đạo bằng máu quả thật là họa hiếm, Thiên Chúa chỉ ban cho một số ít người: vì là hồng ân hoàn toàn, chứ không phải là công nghiệp của ai. Nhưng mà tử đạo bằng ước muốn, bằng tình yêu… là của hết mọi người. Và cũng có thể là của riêng những người có tinh thần nghèo khó, hiếu hòa và tâm hồn trong sạch.

Thành Giêrusalem mới, theo Thánh Kinh, có mười hai cửa vào: nếu không vào nổi qua hồng môn, thì cũng còn những cửa khác đang mở sẵn. Là những lối vào khác nhau, nhưng cùng dẫn về một trung tâm điểm, cùng đưa tới một mục đích là được hưởng Thiên Chúa.

Tôi xin nhắc lại: không phải tình cờ mà chúng tôi bị rơi vào những bàn tay hung tàn, nhưng đó là một xếp đặt của Chúa Quan Phòng.

Tôi tạ ơn Chúa hết tâm hồn, và nguyện xin Ngài gìn giữ các vị Giám mục, các cha thừa sai, các linh mục chúng ta được khang an thánh thiện, cho Giáo Hội Bắc Việt được vinh quang thịnh đạt.

Xin Chúa hộ giúp, bảo vệ các Ngài và cả anh em là những bạn thân hữu, xin cho anh em mỗi ngày một thăng tiến trên đường tu đức.

Thực ra tôi linh cảm là giờ tôi bị tiêu hủy đã gần đến. Tôi đã giữ trọn đức Tin, đã hoàn tất cuộc chạy đua, tôi hy vọng đấng thẩm phán công minh sẽ ban cho tôi phần thưởng công chính, không những cho tôi mà còn cho hết những ai đã yêu mến đón chờ Ngài đến.

Viết mấy dòng này trong giờ phút sắp được tử đạo để nói rõ sự kiện là tôi quí mến anh em thực tình. Anh em hãy yêu thương nhau, hãy vâng lời các vị bề trên, hãy tuân giữ hết mọi luật pháp trong cộng đoàn: trung thành trong sự nhỏ mọn để đáng hưởng phúc Thiên Đàng.

Khi tôi chết rồi, nếu còn làm được chút gì nữa bên cạnh tòa Chúa, tôi hứa sẽ không bao giờ quên anh em. Xin vĩnh biệt.

(Ký tên: Phaolô Tịnh)