MỐI LIÊN HỆ GIỮA CHÚA BA NGÔI NHIỆM CỤC VÀ CHÚA BA NGÔI NỘI TẠI THEO KARL RAHNER

MỐI LIÊN HỆ GIỮA CHÚA BA NGÔI NHIỆM CỤC VÀ CHÚA BA NGÔI NỘI TẠI  THEO KARL RAHNER

Dẫn nhập

Karl RAHNER sinh ngày 5 tháng 3 năm 1904, là linh mục Dòng Tên, người Đức, có ảnh hưởng lớn đến Công đồng Vatican II và mục vụ trong những năm 1950 và 1970. Năm 1937, ngài trở thành giáo sư triết học tôn giáo ở Innsbruck; nơi ngài đã cho xuất bản những tác phẩm đầu tiên của ngài vào năm 1941, với tựa đề ” Con người lắng nghe Lời Chúa”, nơi chúng ta tìm thấy chủ đề mặc khải, chủ đề này sẽ được đưa vào hiến chế “Dei Verbum” của Công Đồng Vatican II. Ngài mất ngày 30 tháng 3 năm 1984 tại Innsbruck (Áo).

Làm thế nào Karl Rahner đưa ra định đề nền tảng bằng cách chỉ ra mối quan hệ giữa Ba Ngôi nhiệm cục và Ba Ngôi nội tại? Nghĩa là thay vì đưa ra những suy luận dài dòng để hiểu về bản chất nội tại của Ba Ngôi qua các phạm trù bản thể, ngôi vị và tương quan, cần trình bày Thiên Chúa Ba Ngôi từ quan điểm của Ba Ngôi trong lịch sử cứu độ. Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến cứu độ chúng ta và ban Chúa Thánh Thần để thánh hóa loài người. Việc trình bày mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi phải được lồng ghép vào chương trình cứu độ và phải đưa con người đến gặp gỡ Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao Karl Rahner viết:

Trong mọi trường hợp, đối tượng của việc tuyên xưng đức tin và thái độ tôn giáo là nội dung cụ thể cho sự cứu rỗi của chúng ta, chứ không phải “Chúa Ba Ngôi” theo cách diễn đạt khái niệm mà nó nhận được trong công thức tín điều: “ba trong một” […] . Cần phải tránh sự hiểu lầm cho rằng đối tác cụ thể của con người, trong hành động thiêng liêng tác động lên con người trong suốt lịch sử Cựu ước, là Chúa Ba Ngôi… nhưng là những gì chúng ta biết một cách cụ thể về Thiên Chúa qua cách Người cư xử với chúng ta và tỏ mình ra cho chúng ta [1].

Trong phần đầu tiên này, chúng ta sẽ trình bày bối cảnh định đề nền tảng của Rahner. Chúng ta có thể nói rằng Karl Rahner là một nhà thần học về “sự tự thông truyền” của Chúa Cha [2]. Theo Yves Tourenne: “ Định đề căn bản có lẽ là chìa khóa của toàn bộ nền thần học Rahnerienne: “sự tự thông truyền của Thiên Chúa Cha. Đây là mầu nhiệm độc nhất của Kitô giáo” [3]. Sau đó, chúng ta sẽ phân tích Ba Ngôi nhiệm cục và Ba Ngôi nội tại để trả lời điều mà nhà thần học Karl Rahner gọi là: Ba Ngôi nhiệm cục là Ba Ngôi nội tại. Sau đó, chúng ta đào sâu hai tư tưởng chính của Rahner về sự tự thông truyền của Thiên Chúa và  về ân sủng. Và cuối cùng, hoa trái mang lại của định đề mà Karl Rahner đã phát triển.

  1. Những lý do giải thích bối cảnh dẫn tới định đề nền tảng của Karl Rahner.

Định đề, theo đó Ba Ngôi nhiệm cục cứu độ là Ba Ngôi nội tại, chúng ta có thể tìm thấy trong Karl Rahner, Dieu Trinité, Fondement transcendant de l’histoire du salut, (Thiên Chúa Ba Ngôi, Nền Tảng Siêu Việt Của Lịch Sử Cứu Độ), đã được xuất bản năm 1971 trong cuốn Dogmatique de l’histoire du salut  (Tín Điều Lịch Sử Cứu Độ). Đây là một trong những tác phẩm thần học quan trọng nhất của thế kỷ 20. Cuốn sách này giúp chúng ta hiểu Karl Rahner đã viết về Chúa Ba Ngôi như thế nào. Có thể nói rằng: “ các tác phẩm viết vào nửa đầu thập niên 1960 như vậy đối với chúng ta có vẻ lỗi thời. Nhưng sau hơn ba mươi năm nhìn lại, chuyên luận của Rahner về Chúa Ba Ngôi cho đến ngày nay vẫn còn xuất hiện với tất cả sự mới mẻ của nó” [4].

Trước hết, để xây dựng định đề này, Karl Rahner gợi lên sự đơn điệu của thần học Chúa Ba Ngôi trong tương quan với đời sống Kitô hữu. Các Kitô hữu, mặc dù tuyên xưng Chúa Ba Ngôi, nhưng thực tế là “độc thần” trong tính thực hành đời sống tôn giáo của họ. “Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi dường như không còn một ảnh hưởng cụ thể nào trên đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu” [5]. Karl Rahner viết:

Trong những điều kiện này, chúng ta không nên ngạc nhiên về lợi ích thiêng liêng hạn chế mà giáo lý Nhập thể mang lại: chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã làm người, nhưng không có gì rõ ràng nổi lên về chính Chúa Ba Ngôi. Trong ý thức đức tin, tín điều Nhập Thể đã được diễn tả rõ ràng, được hiểu. Nhưng điều đó không chứng tỏ rằng Chúa Ba Ngôi có nhiều ý nghĩa trong đời sống thiêng liêng thông thường của người Kitô hữu[6].

Chúng ta có thể nói được rằng, niềm tin vào Chúa Ba Ngôi lâu nay chỉ giới hạn trong lãnh vực lý trí và siêu hình học. Điều này đã tách tín điều này ra khỏi đời sống và đức tin của người Kitô hữu.

Tiếp theo, cách diễn đạt vấn đề gây khó khăn cho Rahner là mối liên hệ giữa “De Deo Uno” ( Thiên Chúa duy nhất ) và “De Deo Trino” ( Thiên Chúa Ba Ngôi ). Theo Rahner, trong các truyền thống kinh viện và tân kinh viện, khảo luận về Chúa Ba Ngôi là cực kỳ trừu tượng, mang tính suy đoán và cắt đứt mọi liên hệ với các phần khác của thần học mà nó không bao giờ được đề cập đến. Thánh Tôma chịu trách nhiệm chính cho sự diễn đạt này kể từ khi ngài chấp nhận cho sự phân chia giữa “De Deo uno”“De Deo trino”. Khi chúng ta tiếp cận luận điểm về Chúa Ba Ngôi, điểm chính về Thiên Chúa, sự tồn tại của Ngài, sự hoàn hảo của Ngài, cuộc sống của chính Ngài đã được gợi lên trong “De Deo uno”, đây là lý do tại sao luận điểm này xuất hiện dưới dạng phụ lục[7].

Rahner nhận ra ở Thánh Thoma điểm hoàn thành của truyền thống “Augustinienne” vốn không ngự trị trong thời Trung cổ. Do đó, Thoma coi Thiên Chúa Ba Ngôi như một “De Deo uno” trước khi coi Thiên Chúa Ba Ngôi như “De Deo trino”. Trên thực tế, mọi thứ trong Chúa đều quan trọng đối với chúng ta và “mọi thứ mà Chúa cho là quan trọng đối với cuộc sống của con người đã được nói trong khảo luận “De Deo uno” [8]. Trong  La trinité indifférente − L’évolution moderne des traités De Deo uno et De Deo trino – Alberto Frigo cho chúng ta biết rằng:

Karl Rahner nhấn mạnh trong lời phê bình của mình về tính chất “triết học” nổi bật của khảo luận “De Deo uno” một khi nó được phân biệt rõ ràng và gần như đối lập với “De Deo trino”. Sự khác biệt giữa hai luận thuyết sau đó sẽ trùng lặp với sự phân chia nhận thức luận giữa cách tiếp cận triết học sơ bộ về thần minh và cách tiếp cận thần học đúng đắn về Chúa Ba Ngôi[9].

Cuối cùng, để xây dựng thần học Chúa Ba Ngôi và một khảo luận mới về Chúa Ba Ngôi, Karl Rahner công bố một luận đề, định đề nền tảng: “ Chúa Ba Ngôi nhiệm cục cứu độ là Chúa Ba Ngôi nội tại” [10]. Luận điểm này giúp chúng ta hiểu được mối liên hệ giữa thần học Chúa Ba Ngôi với đời sống Kitô hữu, giá trị của Ba Ngôi nhiệm cục trong thần học Chúa Ba Ngôi. Trong phần dẫn nhập , Karl Rahner, Dieu Trinité , Fondement transcendant de l’histoire du salut, ( Thiên Chúa Ba Ngôi, Nền Tảng Siêu Việt Của Lịch Sử Cứu Độ ). Yves Tourenne viết:

Do đó, điều cho phép chúng ta tin vào một Thiên Chúa Ba Ngôi như là sự viên mãn của Tình yêu mà Ngài đã tự tỏ mình ra trong lịch sử. Sự biểu hiện này không chỉ là một hiện tượng sẽ để lại nguyên vẹn bí ẩn của thực tại, mà còn là món quà của sự hiện diện của Chúa Ba Ngôi và khả năng tiếp cận sự hiện diện ấy[11].

Điều này có nghĩa là, trong luận thuyết về Chúa Ba Ngôi, có mối tương quan giữa mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và lịch sử cứu độ. Karl Rahner giúp chúng ta hiểu rằng Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm liên quan đến phần rỗi của chúng ta, hay đó là một mầu nhiệm để cứu độ chúng ta. Vấn đề cơ bản nhất là mối quan hệ giữa Ba Ngôi hoạt động trong lịch sử ( Chúa Ba Ngôi nhiệm cục – Thiên Chúa là ai và Ngài làm gì trong lịch sử) và Chúa Ba Ngôi nội tại (nội tại – Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần trong mối liên hệ vĩnh cửu). Đối với Rahner, đó là “điểm mấu chốt” của thần học Ba Ngôi. Ở đây, cách tiếp cận của Rahner tạo thành những đóng góp quan trọng nhất cho thần học về Chúa Ba Ngôi, mà bây giờ chúng ta sẽ khám phá.

  1. Chúa Ba Ngôi nhiệm cục và Chúa Ba Ngôi nội tại.

Đầu tiên, để hiểu đầy đủ định đề của Rahner, chúng ta cần nhớ lại điều mà Rahner dự định hoàn thành bằng cách đồng nhất Ba Ngôi nhiệm cục với Ba Ngôi nội tại. Ý định cơ bản của Rahner là làm cho Chúa Ba Ngôi trở nên trung tâm và nguyên thủy trong mầu nhiệm cứu độ. Rahner muốn phục hồi Chúa Ba Ngôi như là mầu nhiệm cứu độ, vì ngài quả quyết rằng thần học tân kinh viện đã biến Chúa Ba Ngôi thành đối tượng trừu tượng và siêu hình học, hoàn toàn tách rời khỏi lịch sử tự thông truyền của Thiên Chúa. Bằng cách này, Rahner muốn khẳng định rằng sự tự mặc khải và tự thông truyền của Thiên Chúa cho chúng ta trong lịch sử (Ba Ngôi nhiệm cục) không là gì khác ngoài Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong mối tương quan lẫn nhau vĩnh cửu của các Ngài (Ba Ngôi nội tại). Khi chúng ta nói về Thiên Chúa Ba Ngôi là chúng ta đang nói về sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa Ba Ngôi trong thế giới, cụ thể là trong công cuộc cứu độ con người.

Đối với Rahner, Ba Ngôi nhiệm cục là sự tự truyền thông không ngừng của Thiên Chúa cho con người trong không gian và thời gian. Ba Ngôi nhiệm cục diễn tả sự can thiệp của Thiên Chúa vào lịch sử cứu độ. Theo cách này, chúng ta có thể hiểu rằng Ba Ngôi nhiệm cục là Ba Ngôi khi hành động trong lịch sử để cứu độ chúng ta. Nói cách khác: “ Thiên Chúa thông ban chính mình một cách tự do và nhưng không cho thụ tạo của Người trong Đức Giêsu Kitô và trong Thần Khí” [12], qua việc Nhập Thể và việc Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta: “Lịch sử cứu độ, kinh nghiệm của chúng ta về nó, và sự diễn tả của nó trong Kinh thánh, tất cả những điều này cho chúng ta một sự hiểu biết ban đầu” [13]. Thiên Chúa Ba Ngôi là một thuật ngữ được Karl Rahner sử dụng để giải thích khái niệm về sự mặc khải của Thiên Chúa Ba Ngôi trong lịch sử nhân loại: “Đó là một mầu nhiệm liên quan đến sự cứu rỗi của chúng ta; nếu không chúng ta sẽ không hiểu tại sao nó lại được tiết lộ cho chúng ta” [14]. Theo nghĩa này, thần học Ba Ngôi của Rahner là một thần học bắt đầu từ bên dưới, tức là từ những kinh nghiệm cụ thể và lịch sử của chúng ta về việc Thiên Chúa tự thông ban. Đây là tiên đề cơ bản mang lại chìa khóa để hiểu Mặc khải về Chúa Ba Ngôi và cách giải thích mầu nhiệm này của Karl Rahner. Trong phần dẫn nhập cuốn Dieu Trinité, Fondement transcendant de l’histoire du salut  ( Chúa Ba Ngôi, Nền Tảng Siêu Việt của Lịch Sử Cứu độ ), Yves Tourenne đã giải thích Chúa Ba Ngôi nhiệm cục theo Karl Rahner một cách sau:

Định đề của Karl Rahner thể hiện sự đoạn tuyệt của ông với thần học về các chuyên luận riêng biệt. Trong thuyết tân kinh viện, khó thấy rằng Ba Ngôi là sự tỏ hiện của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ: chúng ta bắt đầu từ trên cao, từ Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất, và chúng ta có thể tự hỏi tại sao thực sự là Ngôi Lời nhập thể, mà không phải là  một trong hai Người khác.[…]. Rahner không phản đối cách tiếp cận Ba Ngôi từ bên trên với cách tiếp cận từ bên dưới; Rahner cố gắng nghĩ về mối liên hệ mật thiết giữa Thiên Chúa và tạo vật, đó là món quà của Ân sủng và Tình yêu dành cho loài người: Thiên Chúa biến mình thành người thân thiết nhất của tạo vật trong tiếng rên rỉ của mình[15].

Trong Ba Ngôi nội tại, Thiên Chúa biểu lộ Ngài là ai trong chính Ngài. Không hướng đến ngoại tại  để sáng tạo, mà hướng nội tại. Ba Ngôi nội tại diễn tả hoạt động nội tại trong Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Trong giáo huấn về Chúa Ba Ngôi, Giáo hội Công giáo dạy rằng, Chúa Cha và Chúa Con hiệp thông đồng bản thể và Chúa Thánh Thần phát xuất từ ​​Chúa Cha và Chúa Con[16]. Karl Rahner đã viết :  “Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất vì Người luôn luôn là Đấng Không thể diễn tả được, là mầu nhiệm thiêng liêng, là nền tảng của nguồn gốc không thể hiểu được của việc Người đến trong Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần” [17]. Karl Rahner  đã chỉ ra rằng: “Thiên Chúa là Cha, nghĩa là, Thiên Chúa không có bất kỳ nguồn gốc nào, Đấng có trước muôn đời, Đấng có thể truyền đạt chính mình vì sự truyền thông này […] không lấy đi sự tự do, sự khó hiểu, sự viên mãn của Ngài” [18].

Ở đây, để hiểu rõ hơn những gì Rahner đã nói, chúng ta có thể nghĩ đến Yves Congar, người giúp chúng ta hiểu Chúa Cha là ai, theo Congar: “Trong thần học Ba Ngôi, Chúa Cha  không chỉ được coi là “Ngôi thứ nhất” hay là nguồn gốc và cội nguồn của thần tính mà còn và chủ yếu là Cha của chúng ta trong Chúa Kitô. Tình phụ tử nhiệm cục của lịch sử cứu độ là tình phụ tử nội tại và ngược lại” [19].

Chúa Cha, Đấng sinh thành và sinh hạ, thông truyền mọi sự cho Chúa Con Hằng Hữu. Và chúng ta cũng có thể nghĩ đến J. Moltmann, với sự giải thích như sau:

Chúa Cha thông ban cho Chúa Con thần tính, quyền năng, vinh quang của Người. Do đó, Chúa Con vĩnh viễn nhận được thần tính và nhân cách của Cha. Tình yêu của Cha dành cho Con và tình yêu của Con dành cho Cha. Chúa Cha yêu Chúa Con bằng tình yêu phụ tử. Chúa Con yêu Chúa Cha bằng một tình yêu đáp trả, tận hiến. Do đó, Chúa Cha sinh ra Chúa Con, và Chúa Con luôn sẵn sàng đáp lại của Chúa Cha và do đó làm cho Chúa Cha hạnh phúc. Chính vì lý do này mà tình yêu của Chúa Cha vĩnh viễn sinh ra Chúa Con trở thành tình yêu sáng tạo[20].

Từ đó chúng ta có thể nói rằng Chúa Cha là tình yêu trao ban, Chúa Con là tình yêu đón nhận và Chúa Thánh Thần là tình yêu trao đổi.

Liên quan đến Thiên Chúa Ba Ngôi nội tại, mối liên hệ giữa Thần Khí với Chúa Cha và Chúa Con được Thánh Phaolô xác nhận: “Anh em không ở trong xác thịt mà ở trong Thần Khí, vì Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thuộc về Người” (Rm 8,9). Hoặc “Thiên Chúa đã gửi vào tâm hồn chúng ta Thần Khí của Con Người, Đấng kêu lên: “Abba, Cha ơi!” (Gl 4, 6). Không những thế: Ba Ngôi nội tại còn cho thấy nguồn gốc và tương quan giữa các Ngôi vị trong bản tính thần linh. Theo Rahner, nói về Ba Ngôi nội tại là nói về sự hiện hữu của Ba Ngôi trong cõi đời đời. Ở đây chúng ta có thể tự đặt câu hỏi: tại sao Ba Ngôi nhiệm cục lại là Ba Ngôi nội tại? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta bắt đầu với khẳng định của Rahner rằng Thiên Chúa tự thông truyền chính mình qua lịch sử cứu độ[21]. Ba Ngôi nhiệm cục là sự thực hiện mục đích của Thiên Chúa cho sự cứu rỗi của chúng ta qua con người Chúa Giêsu. Về phần mình, Chúa Ba Ngôi nội tại chỉ đơn giản đề cập đến Chúa Ba Ngôi trong chính nội tại, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong sự vĩnh cửu không được tạo ra. Chúng ta nói rằng Thiên Chúa Ba Ngôi được biểu lộ trong nhiệm cục cứu độ là Thiên Chúa Ba Ngôi nội tại và điều này có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta như Người hằng hữu, do đó gắn sự sống của Người với nhân loại[22].

Theo Karl Rahner, chúng ta có thể nói rằng ba Ngôi vị Thiên Chúa thông ban chính mình cho con người, qua các vai trò khác nhau của họ, chúng ta thấy trong việc tạo dựng là “công việc” của Chúa Cha, trong “công việc” của Chúa Con là hòa giải, và trong sự thánh hóa là ” công việc” của Chúa Thánh Thần. Cả ba cùng hành động. Và qua kinh nghiệm ân sủng của chúng ta trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta có thể biết Ba Ngôi nội tại trong cõi đời đời. Ba Ngôi của lịch sử cứu độ và Mặc khải là Ba Ngôi nội tại, bởi vì, trong việc Thiên Chúa tự thông ban cho tạo vật của mình nhờ ân sủng và việc Nhập thể, chính Thiên Chúa thực sự tự hiến và tỏ mình ra ngài là ai[23]. Bắt đầu từ nhiệm cục cứu độ, chúng ta có thể hiểu được tính nội tại của Chúa Ba Ngôi. Từ Ba Ngôi nhiệm cục, chúng ta có thể biết Ba Ngôi nội tại, bởi vì chính trong nhiệm cục cứu độ mà Thiên Chúa mặc khải Ba Ngôi cho chúng ta.

Từ câu hỏi về mối liên hệ giữa Ba Ngôi nhiệm và Ba Ngôi nội tại, Rahner đưa ra câu trả lời gồm hai phần: Ba Ngôi nhiệm cục là Ba Ngôi nội tại và Ba Ngôi nội tại là Ba Ngôi nhiệm cục[24]. Định đề bao gồm hai khẳng định rõ ràng về “sự đồng nhất” giữa Ba Ngôi nội tại và Ba Ngôi nhiệm cục. Ở đây, căn tính có nghĩa là tính duy nhất về số lượng, nghĩa là chỉ có một Chúa Ba Ngôi, cả nội tại hoặc nhệm cục, hoặc cả hai? Hơn nữa, nếu Ba Ngôi nhiệm cục được đồng hóa với Ba Ngôi nội tại, thì Ba Ngôi nội tại đồng nhất với Ba Ngôi nhiệm cục. Tại sao Rahner cảm thấy cần phải thêm vào phát biểu thứ hai rằng Ba Ngôi nội tại là Ba Ngôi nhiệm cục? Vì vậy, một khẳng định như vậy là dư thừa? Nếu không, nó có nghĩa là gì? Những câu trả lời khác nhau cho những câu hỏi này dẫn định đề của Rahner đến những điểm thần học mà ông có thể không lường trước hoặc đã đồng ý.

Một số truyền thống của Augustinô nói rằng mặc dù chúng ta biết qua sự mặc khải, rằng Ngôi Lời đã trở thành người, nhưng kinh nghiệm của chúng ta về Thiên Chúa sẽ không khác nếu một ngôi vị khác đã nhập thể, vì người đó vẫn có thể tiết lộ cho chúng ta Thiên Chúa là gì và là ai bởi “lời nói”, chứ không phải bởi Ngài là ai, tức là bởi ngôi vị của Ngài. Vì vậy, Ba Ngôi nhiệm cục không nhất thiết phải là Ba Ngôi nội tại. Rahner trả lời rằng truyền thống Kitô hữu của Augustinô không bao giờ chấp nhận khả năng này; ngược lại, truyền thống luôn bảo vệ Thiên Chúa Cha mặc khải chính mình qua Lời của Ngài. Hơn nữa, Rahner cho thấy, sự phản đối này là sai lầm, bởi vì nó cho rằng điều gì đúng với một ngôi vị Thiên Chúa thì cũng đúng với một ngôi vị khác, vì nó sử dụng khái niệm “ngôi vị” để áp dụng cho ba thành viên của Chúa Ba Ngôi cùng một ý nghĩa.  Do đó, sự phản đối này không làm mất hiệu lực công thức của Rahner rằng Ba Ngôi nhiệm cục là Ba Ngôi nội tại và ngược lại[25].

Chúng ta cần lưu ý rằng, bằng cách sử dụng hai cách diễn đạt Chúa Ba Ngôi nhiệm cục và Chúa Ba Ngôi nội tại, Rahner không có ý nói rằng có hai Chúa Ba Ngôi tình cờ được đồng nhất, một Chúa Ba Ngôi hoạt động trong lịch sử và được ban tặng cho chúng ta để biết và yêu mến trong thời gian, một Chúa Ba Ngôi khác trong cõi vĩnh hằng với ba người hoàn toàn không thể đến gần chúng ta. Quan điểm của Rahner là thế này: không có Chúa Ba Ngôi nội tại nào ẩn đằng sau hoặc bên trên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta gặp trong lịch sử. Trái lại, chỉ có một Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng tự hiến cho chúng ta là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, cũng như Ba Ngôi liên kết mật thiết với nhau.

Thứ hai, bằng cách miêu tả Chúa Ba Ngôi như một mầu nhiệm cứu độ, Rahner cũng hoàn thành mục tiêu khác là biến tín điều Chúa Ba Ngôi thành trung tâm và nguồn gốc của mầu nhiệm soi sáng và định hình sự hiểu biết của chúng ta về các giáo lý Kitô giáo khác. Như đã lưu ý ở trên, Rahner ám chỉ rằng, thần học Chúa Ba Ngôi phải ảnh hưởng đến thần học của chúng ta về sáng tạo, nhập thể, cứu chuộc, ân sủng, cầu nguyện và cánh chung. Đây không phải là chỗ để thảo luận chi tiết Rahner đã phát triển những khía cạnh khác nhau này của đức tin Kitô như thế nào và chúng đã được hình thành bởi thần học Ba Ngôi của ngài đến mức độ nào. Chúng ta chỉ đơn giản nhấn mạnh rằng, đối với Rahner, không có sự phân biệt giữa giáo huấn về Chúa Ba Ngôi và giáo huấn về nhiệm cục cứu độ[26].

Karl Rahner cho thấy cần phải bắt đầu từ mầu nhiệm cứu độ để khám phá mầu nhiệm Thiên Chúa. Có lẽ không có cách nào hiểu Chúa Ba Ngôi tốt hơn là bắt đầu với lịch sử cứu độ. Thiên Chúa đã trở thành người phàm. Thay vì trình bày tín điều về Chúa Ba Ngôi như một học thuyết trừu tượng, Rahner cố gắng biến nó thành hiện thực cụ thể cho đời sống của người tín hữu. Đến đây, chúng ta đã tạm hiểu tại sao Ba Ngôi nhiệm cục là Ba Ngôi nội tại. chúng ta hãy hướng sự chú ý của mình đến sự tự truyền thông  và ân sủng của Thiên Chúa theo quan điểm của Karl Rahner.

  1. Chúa Ba Ngôi nhiệm cục là sự tự thông truyền của Thiên Chúa cho chúng ta.

Theo Rahner, một sự thông truyền mà Thiên Chúa dành cho chúng ta về chính Ngài đòi hỏi hai chú ý. Thứ nhất, mầu nhiệm tự truyền thông của Thiên Chúa chính là việc Thiên Chúa thực sự đến với con người, tự nhập mình vào thân phận con người, và trong tất cả sự thật, nhưng điều đó không ngăn cản Ngài trở thành như chính Ngài trọng nội tại. Mặt khác, sự thống nhất trong hành động sáng tạo của một Thiên Chúa duy nhất không ngăn cản chúng ta coi sự kiện sáng tạo như một yếu tố của sự truyền thông mà Thiên Chúa tạo ra. Sự xem xét như vậy phù hợp với giả định có thể hiểu được và khép kín rằng sự sáng tạo có thể tồn tại mà không cần sự tự thông truyền như vậy. Hơn nữa, cái mà chúng ta gọi là “bản tính con người” của Chúa Kitô không chỉ đơn giản được quan niệm như bất kỳ thực tại nào trong số nhiều thực tại tương tự khác mà cũng có thể đã giả định trước bởi Ngôi Lời: đó chính xác là điều xảy ra khi Ngôi Lời của Thiên Chúa “ tự biểu lộ” ngoại tại của chính mình[27].

Đối với Karl Rahner, Thiên Chúa duy nhất thông ban chính mình dưới hình thức kép như một biểu hiện tuyệt đối của chính mình ngài và như một món quà tuyệt đối của tình yêu. Nhưng sự truyền thông như thế thực sự là một dấu chỉ truyền thông chính mình: Thiên Chúa không tự bằng lòng để tạo vật của Ngài “tự nó” tham dự vào bản chất của Ngài, bởi vì Ngài đã sáng tạo và trao ban. Chính Ngài ban cho, và sự thông truyền này mở ra cánh cửa đến nơi thánh bên trong của Thiên Chúa để chúng ta có thể thấy sự hiện diện của Ngài, là sự thật hiển lộ và là sức mạnh sẽ điều khiển dòng lịch sử. Cuối cùng, chính Ngài truyền đạt cho con người sự chấp nhận yêu thương đối với sự thông truyền mà Ngài tạo ra cho chính mình, và Thiên Chúa làm như vậy theo cách mà sự chấp nhận ấy không hạ thấp sự thông truyền của ngài xuống cấp độ của một thực tại được tạo ra[28].

Khi chúng ta nói đến Thiên Chúa Ba Ngôi là chúng ta muốn nói đến sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong thế giới, cụ thể là trong công cuộc cứu độ con người với sứ vụ của Ngôi Lời nhập thể và sứ vụ của Chúa Thánh Thần sau khi phục sinh của Chúa Kitô. Tất cả những gì tỏ hiện nơi Ngôi Lời và nơi Thánh Thần trong mầu nhiệm cứu độ cho thấy Thiên Chúa Ba Ngôi tự thông ban trong công trình cứu độ, Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người[29]. Theo Karl Rahner, chính Chúa Cha tự hiến mình cho chúng ta trong sự thông ban tuyệt đối về chính mình qua Chúa Con trong Chúa Thánh Thần[30]. Chúa Con là phương tiện lịch sử, và Chúa Thánh Thần ở trong chúng ta là nơi tự thông ban từ Chúa Cha. Đây là lý do tại sao Rahner ủng hộ khái niệm Logos hơn là tên của Chúa Con. Ý tưởng này cho rằng sự tự thông truyền của Chúa Cha là khuynh hướng duy nhất và độc nhất của Ba Ngôi làm sáng tỏ đặc biệt luận điểm của Karl Rahner như chúng ta đã chỉ ra. Điều này có nghĩa là “tất cả những gì chúng ta có thể biết và nói về Chúa Ba Ngôi nội tại, chúng ta biết điều đó trước hết, khi chúng ta nói về Chúa Ba Ngôi nhiệm cục”[31]. Nói cách khác : “Vì nhiệm cục cứu độ là việc Thiên Chúa tự thông ban, nên điều được mạc khải và thông ban là chính Thiên Chúa, hiểu theo nghĩa Ba Ngôi nội tại. Cũng vậy, Ba Ngôi nhiệm cục, hiện diện trong lịch sử cứu độ cũng là Ba Ngôi nội tại mà Ngài hiện diện trong cõi đời đời” [32].

Chúng ta biết mối liên hệ giữa các Ngôi vị trong lịch sử cứu độ và nó được biểu lộ ở đó: các mối liên hệ của Thiên Chúa Ba Ngôi với chúng ta theo thứ tự ân sủng của Chúa Kitô đã được thực hiện. Vì vậy, Ba Ngôi nội tại biểu hiện trong Ba Ngôi nhiệm cục, nhưng sự hiểu biết này đưa chúng ta trở lại với Ba Ngôi nội tại để biết nhiều hơn, để biết Ba Ngôi như la chính Ngài tồn tại trong chính mình. Như Rahner đã nói: “Chúng ta không thể phân biệt cách thỏa đáng giữa học thuyết về Chúa Ba Ngôi và học thuyết về nhiệm cục” [33]. Nếu Chúa Giêsu đã không nói về Người, Người đã không nói Người là Con Thiên Chúa, nếu chúng ta chỉ biết Người qua những dấu chỉ hành động của Người, không cần lời giải thích nào, thì chúng ta đã không biết Người, với tư cách là một Ngôi vị riêng biệt, và  là Thiên Chúa . Mặc khải nhất thiết phải bao gồm các mệnh đề hướng dẫn chúng ta, cho chúng ta biết, ngay cả khi chúng không thể tách rời khỏi thực tế mà chúng nói đến, và ngay cả khi chúng không thể hiểu được nếu không có một số kinh nghiệm về những thực tế này. Rahner chỉ ra rằng đây là lý do tại sao: Chúa Ba Ngôi không chỉ là một thực tại có thể được phát biểu theo cách thuần túy giáo lý. Chính Thiên Chúa đến với chúng ta, và nếu chính Ngài được ban cho chúng ta, thì không phải chỉ vì mặc khải sẽ truyền cho chúng ta những mệnh đề nói về Ngài[34].

Đối với Karl Rahner, dấu chỉ căn tính tự truyền thông của Thiên Chúa là biến cố nhập thể. Logos đã thực sự trở thành con người nơi Chúa Giêsu. Logos như Gioan mô tả là Ngôi Lời nhập thể. “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta, và chúng ta đã được chiêm ngưỡng vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Đây là Ngôi Lời vĩnh cửu, “lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1, 1). Ngôi Lời nội tại trong Ba Ngôi vĩnh cửu là Ngôi Lời trong lịch sử cứu độ. Logos vĩnh cửu nơi Thiên Chúa đã đi vào lịch sử nơi Đức Giêsu Kitô. Hơn nữa, Rahner cũng lưu ý rằng không phải tất cả mọi ngôi vị đều có thể được nhập thể mà chỉ có Logos. Trong việc Thiên Chúa tự thông ban cho thụ tạo của mình nhờ ân sủng và nhờ việc Nhập thể của Chúa Con, Thiên Chúa thực sự tự hiến và biểu lộ như chính Ngài. Điều này cũng có nghĩa là, trong Ba Ngôi nhiệm cục, lịch sử cứu độ và Mặc khải, chúng ta đã kinh nghiệm được Ba Ngôi nội tại trong chính Thiên Chúa.

  1. Vai trò của thần học về ân sủng.

Theo Rahner, nếu Chúa Ba Ngôi nhiệm cục không phải là Chúa Ba Ngôi nội tại và nếu Chúa Ba Ngôi nội tại là một cái gì đó khác với Chúa Ba Ngôi nhiệm cục, thì sự mặc khải thiêng liêng đã không cho chúng ta biết điều gì đáng tin cậy và chân thực về Thiên Chúa. Trên hết, nó chứa đựng một điều gì đó về Thiên Chúa, nhưng không phải về việc Thiên Chúa thông ban chính mình cho chúng ta, và do đó, mặc khải chưa đạt đến sự viên mãn cánh chung của nó. Tương tự như vậy, ân sủng có thể đơn giản là ân sủng được tạo thành chứ không phải là ân sủng không được tạo thành, đó là sự ngự trị của Chúa Ba Ngôi trong chúng ta. Rahner chắc chắn rằng tất cả những điều này có thể trái ngược với những gì đức tin Kitô giáo nói về sự mặc khải và ân sủng. Karl Rahner viết như thế này:

Ngay cả trong các chuyên luận có tựa đề “De gratia Christi”, trên thực tế, học thuyết về ân sủng là độc thần: ân sủng, người ta thường nói, là sự chia sẻ bản tính thần linh, thuật ngữ của nó là tầm nhìn về bản chất thần linh. Người ta nói thêm rằng đúng là ân sủng đã được “công nhận” bởi Chúa Kitô. Nhưng vì ân sủng này xuất hiện, theo giả thuyết tốt nhất, là ân sủng của “Thiên Chúa” làm người, chứ không phải là ân sủng của Ngôi Lời nhập thể (nhập thể như Logos), và vì ân sủng này được quan niệm là sự đền bù (nhưng không) của một ân sủng mà chúng ta thường mô tả như là, trước khi có sự sa ngã nguyên tổ, ân sủng đơn giản của Thiên Chúa, chứ không phải của Ngôi Lời (và càng không phải của Ngôi Lời, Đấng sẽ nhập thể), theo đó, luận thuyết về ân sủng cũng vậy, không dẫn chúng ta về mặt thần học hay tôn giáo đến mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất và ba ngôi[35].

Rahner nhấn mạnh rằng ân sủng này là quà tặng tự thân của Thiên Chúa ban cho toàn thể nhân loại nhờ Đức Kitô và trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Mọi ân sủng đều phát xuất từ ​​Chúa Cha, qua Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Bằng cách này, Rahner không có ý nói rằng chúng ta có thể chắc chắn rằng mọi người trên thực tế sẽ chấp nhận món quà ân sủng của Chúa. Rahner chỉ muốn nói rằng: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2, 4) nhờ Đức Kitô và nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, và ý muốn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa là một cái gì đó biến đổi toàn bộ nhân loại, về thể chất và ý thức. Đối với Rahner, ân sủng chủ yếu không phải là một cái gì đó, một phẩm chất được tạo ra trong chúng ta bởi Thiên Chúa, bởi một ân sủng được tạo thành, nhưng nó là nơi cư ngụ của Ba Ngôi Thiên Chúa trong chúng ta theo thực tại của Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần[36].

Qua kinh nghiệm về ân sủng, Rahner giúp chúng ta nhận thức rằng, ân sủng là việc Thiên Chúa tự thông ban cho con người trong thế giới. Ngay từ buổi đầu tạo dựng của Thiên Chúa, con người đã nhận được món quà hiện hữu nhờ Đức Kitô. Rahner tin rằng việc Thiên Chúa tự thông ban trong Chúa Giêsu Kitô là khởi đầu và kết thúc lịch sử nhân loại. Karl Rahner giải thích: Tự thông truyền không xảy ra gián tiếp với tư cách là quan hệ nhân quả, hiệu quả như bên ngoài, mà là liên hệ thông truyền trực tiếp. Điều này khẳng định rằng, Thiên Chúa không chỉ mạc khải hay thông ban gián tiếp qua một trung gian, nhưng Thiên Chúa liên hệ trực tiếp với con người trong ân sủng. Rahner viết:

Thiên Chúa cư xử với chúng ta theo cách thức Ba Ngôi, và cách cư xử này, không phải là một hình ảnh đơn giản hay một phép loại suy đơn giản về sự sống mật thiết của Ba Ngôi, mà chính sự sống trong Chúa Ba Ngôi, không làm thay đổi theo bất kỳ cách nào sự tự do và  bản chất của sự thông truyền này. Điều được truyền đạt chính là Thiên Chúa ngôi vị và ba ngôi, và đây là cách thức truyền thông của Thiên Chúa với tạo vật của Ngài (tôi nói về sự thông truyền do một quyết định tự do của Thiên Chúa theo thứ tự ân sủng), nếu nó diễn ra, không thể giả định được bất kỳ hình thức nào khác ngoài hình thức được thực hiện bên trong Thiên Chúa, hình thức thông truyền kép của bản chất thần linh do Chúa Cha thực hiện với Chúa Con và Chúa Thánh Thần, bất kỳ hình thức thông truyền nào khác, hoàn toàn không có khả năng truyền đạt một thực tại như vậy, các ngôi vị thần linh, bởi vì những điều này hoàn toàn không khác biệt với cách tự thông truyền của chính Thiên Chúa[37].

Theo Rahner, tự thông ở đây không được hiểu như là một món quà từ bên ngoài con người mà là món quà được Thiên Chúa Ba Ngôi cư ngụ trong sâu thẳm trái tim con người, mà chúng ta có thể nói đó là một món quà của chính Ngài cho chúng ta. Do đó, Rahner gọi sự tồn tại của con người là một hữu thể siêu việt, mà ngay từ đầu đã được ghi trong trật tự ân sủng. Đây là lý do tại sao bản thân con người cởi mở với thực tại siêu việt. Trong con người luôn có một cái gì đó thánh thiện để họ luôn hướng về sự thánh thiện; phải có một cái gì thiêng liêng trước khi con người có thể tìm thấy Cội Nguồn Thiêng Liêng và cởi mở đón nhận chính Thiên Chúa khi Người thông truyền chính mình cho con người. Và con người có thể nhận được sự tự thông ban này từ Thiên Chúa trong chính những kinh nghiệm cụ thể của đời sống con người. Bất kỳ kinh nghiệm cụ thể nào của con người luôn chứa đựng dấu vết của những gì siêu việt, thiêng liêng và cao cả. Mỗi khoảnh khắc con người sống là một mối liên hệ giữa tinh thần và hành động cụ thể trong thế giới, mỗi khoảnh khắc tồn tại là một khoảnh khắc đưa con người đến với Đấng Tuyệt Đối. Vì lý do này, ân sủng như một sự thông truyền từ Thiên Chúa trở nên khả thi đối với con người. Qua sự thông truyền của mình, Thiên Chúa trở nên như một “Quà Tặng” cho con người nhờ sự hiện diện của Ba Ngôi trong lịch sử cứu độ.

  1. Những hoa trái của định đề Rahner.

Theo Yves Tourenne: “Định đề căn bản của Rahner đã trở thành ‘mẫu chung’ của thần học đương đại”[38]. Nếu được chấp nhận, định đề của Rahner hẳn đã trở nên phổ biến trong thần học Công giáo. Chúng ta đã đề cập đến một số lĩnh vực thần học mà theo Rahner, các nghiên cứu thần học nên được hướng dẫn bởi giáo huấn về Chúa Ba Ngôi. Bản thân Rahner tập trung vào giáo huấn về ân sủng, vốn là trọng tâm trong thần học của ngài. Từ định đề của Rahner, thần học theo đuổi sự lựa chọn chung trong thần học tân kinh viện vì điều này, không thể chối cãi rằng trong ân sủng; con người chỉ có quan hệ với Thiên Chúa một cách tổng quát và trên hết, mối quan hệ này có thể phù hợp với mỗi ngôi vị thần linh. Do đó, Rahner tuyên bố một cách ngắn gọn: mỗi một ngôi vị trong ba ngôi vị thiêng liêng đều tự hiến mình cho con người, nhưng không theo tính đặc thù và sự phân biệt cá nhân của riêng mình.

Rahner viện dẫn hai loại quan hệ nhân quả để mô tả cách thức sự tự thông truyền này của Ba Ngôi nội tại trong Ba Ngôi nhiệm cục, đồng nhất cái sau với cái trước và có thể cho phép con người nhận thức rằng sự thông truyền của Thiên Chúa có mối quan hệ riêng biệt với mỗi ngôi vị. Việc Thiên Chúa tự thông ban này xảy ra không chỉ nhờ những cách hiệu quả để mang lại một điều gì đó mới mẻ trong chúng ta, mà còn nhờ những nguyên nhân chính thức, trong đó ba Ngôi vị Thiên Chúa hiến thân cho chúng ta theo ba thực thể. Các phương thức tồn tại riêng biệt, vì Thiên Chúa là những hữu thể (tức là những ngôi vị) trong Ba Ngôi nội tại: Chúa Cha như là Mầu nhiệm được ban cho nhưng vẫn không thể hiểu được, Chúa Con như Lời Chân lý được nói ra về mầu nhiệm này, và Chúa Thánh Thần như Tình yêu đối giúp chúng ta đón nhận món quà này của Thiên Chúa[39].

Một hệ luận khác của định đề Rahner là phương pháp thần học. Nếu Ba Ngôi nhiệm cục là Ba Ngôi nội tại, thì điểm khởi đầu duy nhất để phát triển một thần học về Ba Ngôi nội tại không phải là một phép loại suy trừu tượng, tâm lý hay siêu hình, mà là kinh nghiệm về lịch sử cứu độ của Thiên Chúa như được mặc khải dưới hai hình thức Ngôi Lời và Thần Khí. Do đó, Rahner lập luận rằng chúng ta chỉ có thể nắm bắt được nội dung giáo huấn về Chúa Ba Ngôi bằng cách quay trở lại lịch sử cứu độ và ân sủng, trở lại với những kinh nghiệm của chúng ta về Chúa Giêsu và Thánh Thần.  Thiên Chúa hoạt động trong chúng ta, vì trong đó chúng ta thực sự nắm bắt được chính Chúa Ba Ngôi như Người là[40].

Bernard Sesboüé nhấn mạnh rằng tiên đề này là một chân lý được hình thành trong Truyền thống của Giáo hội[41]. Tuy nhiên, theo ông, Ba Ngôi nội tại luôn vượt quá sự biểu hiện của nó trong Ba Ngôi nhiệm cục, do đó, sự ngược lại chỉ là tương đối. Quan điểm của Rahner thực sự để lại rất nhiều câu hỏi. Ở đây, câu hỏi được đặt ra là sự đồng nhất giữa Ba Ngôi nhiệm cục và Ba Ngôi nội tại có ý nghĩa gì trong định đề nền tảng, theo đó: “Chúa Ba Ngôi tự biểu lộ trong nhiệm cục cứu độ là Chúa Ba Ngôi nội tại, và ngược lại” [42], được nhấn mạnh bởi trạng từ “ngược lại”, quá táo bạo theo hầu hết các nhà thần học và có lẽ đối với chính Karl Rahner[43], người đã xóa bỏ trạng từ khi sử dụng tiên đề: “Chúa Ba Ngôi trong nhiệm cục cứu độ và Mặc khải là Chúa Ba Ngôi nội tại”[44].

Kết luận

Trong phần này, chúng ta đã phân tích định đề của Karl Rahner, theo đó ” Chúa Ba ngôi nhiệm cục là Ba ngôi nội tại”. Karl Rahner cho chúng ta thấy rằng con người có khả năng đi vào đời sống nội tại của Thiên Chúa. Bởi vì, Thiên Chúa yêu thương và muốn tỏ mình ra cho con người. Ngài đã tạo ra con người theo hình ảnh của Ngài. Như Rahner mô tả, đã có sẵn một cái gì đó thiêng liêng và siêu việt trong cấu trúc tồn tại của con người, từ đó con người có thể đạt tới Siêu việt trong chính kinh nghiệm hàng ngày của mình, và gặp gỡ Chúa trong chính kinh nghiệm hàng ngày này. Cách giải thích về Chúa Ba Ngôi này của Rahner cho thấy rằng thực tại Chúa Ba Ngôi rất gần với kinh nghiệm của con người qua lịch sử tạo dựng và cứu độ. Có thể nói rằng cách tiếp cận dựa trên lịch sử cứu độ của Rahner đã đưa tín điều về Chúa Ba Ngôi đến gần chúng ta hơn: nó không còn là một điều gì trừu tượng và xa lạ đối với đời sống đức tin của người tín hữu. Nếu trước đây, với lối giải thích truyền thống, thần học về Chúa Ba Ngôi không liên quan gì đến đời sống Kitô hữu, thì từ lịch sử cứu độ, Rahner đã đưa thực tại về Chúa Ba Ngôi vào cuộc sống. Nếu trong quá khứ, Chúa Ba Ngôi là một học thuyết xa rời thực tế và không có yếu tố mục vụ, thì giờ đây, phương pháp mà Rahner, một trong những người tiên phong cho phép các tín hữu cảm nghiệm thực tại Chúa Ba Ngôi nơi họ làm việc, cảm nghiệm Ngôi Lời và Thánh Thần trong cuộc sống và trong chính cuộc sống của họ. Đó cũng là một cách thức thần học của chúng ta trong tiến trình này. Và để đi xa hơn, chúng ta sẽ đào sâu sự phát triển của định đề căn bản này trong tác phẩm của Karl Rahner ( còn tiếp ).

                                                                                                             Lm. Giuse Phan Cảnh

                                                                                                ĐCV Phaolo Lê Bảo Tịnh -Thanh Hóa

Chú thích:

[1] Karl RAHNER, Dieu Trinité , Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999, p. 69-70.

 [2]L’introduction par Yves Tourenne, dans Karl RAHNER, Dieu Trinité, Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999, p. 5.

 [3]Karl RAHNER, Dieu Trinité , Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999, p. 11.

 [4] Ibid, p. 2.

 [5]Serge-Thomas BONINO, Dieu, Celui qui est, Paris, Parole et Silence, 2016, p. 96.

 [6] Karl RAHNER, Dieu Trinité, Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999, p. 19.

 [7] Serge-Thomas BONINO, Dieu, Celui qui est, Paris, Parole et Silence, 2016, p. 96.

 [8]Karl RAHNER, Dieu Trinité, Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999,  p. 24.

 [9] Alberto FRIGO, « La trinité indifférente − L’évolution moderne des traités De Deo uno et De Deo trino », Communio XLV 3-4, no 269, mai- août 2020, p. 117-132, p. 123.

 [10] Karl RAHNER, Dieu Trinité , Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999, p. 28

 [11]L’introduction par Yves Tourenne, dans Karl RAHNER, Dieu Trinité, Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999, p. 5.

 [12]Karl RAHNER, Dieu Trinité, Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999, p. 95.

 [13]Ibid., p. 94.

 [14]Ibid., p. 28.

 [15] Karl RAHNER, Dieu Trinité, Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999, p. 9.

 [16] Catéchisme de l’Église Catholique, Paris, Mame-Plon, 1992, no 248, p. 62.

 [17]Karl RAHNER, Traité fondamentale de la foi, Études sur le concept du christianisme, Paris, Cerf, 2011, p. 161.

 [18] Karl RAHNER, Dieu Trinité, Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999, p. 96.

 [19]Yves CONGAR, Je crois en l’Esprit Saint, t.1, Paris, Cerf, 2002, p. 38.

 [20]Jürgen MOLTMANN, Trinité et Royaume de Dieu. Contributions au traité de Dieu. Coll. « Cogitatio fidei », 123, Paris, Cerf, 1984, p. 212.

 [21] Karl RAHNER, Dieu Trinité, Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999, p. 28.

 [22]Cf. Karl RAHNER, Traité fondamental de la foi, Études sur le concept du christianisme, Paris, Cerf, 2011.

 [23] Ibid, p. 160.

 [24]Karl RAHNER, Dieu Trinité, Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999, p. 29.

 [25] Ibid, p. 35-36.

 [26]Ibid, p. 28-29.

 [27] Karl RAHNER, Dieu Trinité, Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999, p. 111.

 [28] Ibid, p. 44-45.

 [29]Jean-Hervé NICOLAS, Synthèse dogmatique, de la trinité à la Trinité, Paris, Beauchesne, 1991, p. 227.

 [30] Karl RAHNER, Traité fondamental de la foi.., Paris, Cerf, 2011, p. 141.

 [31]Jean-Hervé NICOLAS, Synthèse dogmatique, de la trinité à la Trinité, Paris, Beauchesne, 1991, p. 74.

 [32]Silouane PONGA, « La Dramatique trinitaire de la révélation et du salut chez H.U von Balthasar », Nouvelle Revue Théologique, 124, Octobre-Décembre 2002, p. 558

 [33] Karl RAHNER, L’auditeur de la parole, Écrits sur la philosophie de religion et sur les fondements de la théologie, Oeuvres 4, Paris, Cerf, 2013, p. 121.

 [34]Ibid., p.134-135.

 [35] Karl RAHNER, Dieu Trinité , Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999, p. 113-114.

 [36] Ibid, p. 114-115.

 [37]Ibid., p. 43.

 [38]L’introduction par Yves Tourenne, dans Karl RAHNER, Dieu Trinité, Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999, p. 14.

 [39]Ibid.,  p. 44-45.

 [40] Karl RAHNER, Dieu Trinité, Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999, p. 112.

 [41]Cf. Bernard SESBOÜÉ, Karl Rahner, coll. « Initiation aux théologiens », Paris, Cerf, 2001.

 [42] Karl RAHNER, Dieu Trinité, Fondement transcendant de l’histoire du salut, Paris, Cerf, 1999, p. 29.

 [43]Xavier MORALES, Dieu en personnes, coll. «Cogitation fidei» 279, Paris, Cerf, 2015, p. 73.

 [44]Karl RAHNER, Traité fondamental de la foi, Paris, Cerf, 2011, p. 160.