CÁC BÀI SUY NIỆM TAM NHẬT THÁNH

BÀI SUY NIỆM THÁNH LỄ TIỆC LY CHIỀU THỨ 5 – TAM NHẬT THÁNH

BUỔI CHIỀU CỦA TÌNH YÊU

 

Cộng đoàn phụng vụ thân mến!

     Bài hát : “ Xin định nghĩa tình yêu “ của tác giả Paul Cao Huy Hoàng thật ý nghĩa. “Yêu là chết đi, là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình yêu. Yêu không là ngó nhau nhưng là ngước cao cùng nhìn về bến mai sau. Yêu xin đừng dối gian, xin đừng trái ngang, dù lắm lo toan, xin đừng ly tan. Yêu ta cùng ước giao, dẫu ngàn khổ đau, một lần xin hứa trọn đời thủy chung. Hãy yêu như Giêsu, chết đi cho dương gian, đóng đinh cho người mình yêu mến. Hãy yêu trong an vui, thủy chung trong đau thương, sống trong cuộc đời đầy mến yêu”.

Chiều thứ Năm Tuần Thánh là một buổi chiều của Tình Yêu. Cả bầu không khí thấm đẫm Tình Yêu. Từng lời nói, từng cử chỉ của Chúa Giê-su đều trang trọng và đậm đặc sứ điệp tình yêu làm cho phòng Tiệc ly thật ấm cúng. Hai cử chỉ nổi bật trong bữa Tiệc ly là việc Chúa Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể và rửa chân cho các Môn đệ.

Thánh Gioan không tường thuật việc lập Phép Thánh Thể, nhưng chỉ tập trung vào việc rửa chân. Việc rửa chân được miêu tả rất tỉ mỉ, rành rọt, từng chi tiết, bằng lời văn trang trọng. Chúng ta hãy đọc lại đoạn tả Chúa Giêsu chuẩn bị rửa chân cho các môn đệ: “Chúa Giêsu đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Người đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ” ( Ga 13, 4-5 ).

Khi Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ, đến lượt ông Phêrô, ông hoảng hốt la lên : “Không đời nào Thầy rửa chân cho con”, Đức Giêsu đáp lại : “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con không có phần nào với Thầy” (Ga 13,8). Nói cách khác, ở đâu có tình yêu, ở đó có quà tặng. Quà tặng là dấu tình yêu chuyển lưu từ người này đến người khác.

Có một người mẹ khi dự tiệc, người ta đưa cho chị trái cam để ăn tráng miệng, nhưng vì nghĩ đến đứa con ở nhà, nên chị bỏ trái cam vào túi.

Đứa con thấy mẹ về nên hớn hở chạy ra đón, chị liền trao trái cam cho con. Em bé mừng quýnh cám ơn mẹ, rồi định lấy dao bổ cam ra ăn cho đỡ thèm! Nhưng em chợt nghĩ đến bố đang đi làm nắng nôi ngoài đường, em thương bố nên cất trái cam đợi bố về để cùng ăn với bố.

Khi ông bố vừa về đến nhà, em bé cầm trái cam chạy đến nói :

– Thưa bố, chắc bố mệt lắm, con có trái cam biếu bố ăn cho đỡ mệt này.

Ông bố vô cùng cảm động trước cử chỉ của đứa con, ông cám ơn con và định không nhận, nhưng em cứ nằng nặc đòi bố phải lấy ăn cho đỡ mệt!

Cầm trái cam vào nhà, ông định lấy dao bổ ra cho hai cha con ăn. Nhưng ông chợt nghĩ : con mình còn bé mà còn biết nghĩ đến mình, sao mình không biết nghĩ đến vợ đang vất vả trong bếp nhỉ? Thế là ông chồng cầm ngay trái cam vào bếp tươi cười chào vợ và nói :

– Anh đi làm về, không có gì để tặng em, chỉ có trái cam này, em dùng cho đỡ mệt.

– Người vợ cầm trái cam rưng rưung nước mắt và nói: em hạnh phúc quá, em tạ ơn Chúa và cám ơn anh.

Như thế cả gia đình đã biết sống lời Thánh Gioan nói : “Đừng ai yêu bằng đầu lưỡi, nhưng yêu bằng việc làm thực sự!” (1 Ga 3,18). Thiên Chúa cho chúng ta biết bao món quà quý giá, nhưng Ngài không nhận lại điều gì, vì sự giàu sang vinh quang của Ngài không bao giờ vơi cạn. Loài người không ai có thể cho người khác điều gì tốt nếu không biết nhận từ nơi Thiên Chúa. Những ân lộc Chúa ban cho, không chỉ để chúng ta hưởng dùng, mà còn để chia sẻ tình yêu chân thật ấy. Đó là cách tạ ơn Chúa, vì thế trong kinh Tiền Tụng Tạ Ơn, Hội Thánh cất lời chúc tụng : “Việc tạ ơn của chúng con chẳng thêm gì cho Chúa nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng con”.

Chúa Giêsu cử hành việc rửa chân một cách trang trọng như cử hành một Bí tích. Vì việc rửa chân bổ túc cho bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể được cử hành trong nhà thờ. Việc rửa chân được thực hiện ngoài cuộc đời. Khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu có ý dạy ta hãy thực hành đạo không chỉ trong nhà thờ mà còn ngoài xã hội nữa. Bí tích Thánh Thể hướng lòng ta về Chúa. Việc rửa chân hướng lòng ta về con người. Khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu có ý dạy ta rằng chỉ mến Chúa thôi thì chưa đủ, cần phải yêu người nữa mới trọn vẹn điều răn Chúa truyền. Bí tích Thánh Thể được cử hành trên bàn thờ. Việc rửa chân được cử hành trên con người. Khi rửa chân cho các môn đệ Chúa Giêsu dạy ta rằng con người chính là đền thờ, là bàn thờ của Chúa.

Chúa Giêsu cử hành nghi thức rửa chân một cách trang trọng vì Người kính trọng con người. Đang ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài, lấy khăn thắt lưng, đó là cử chỉ của người đầy tớ. Khi chủ đang ngồi ăn, đầy tớ phải đứng phục vụ. Để việc phục vụ được dễ dàng đầy tớ phải cởi bỏ áo ngoài, thắt lưng cho gọn gàng. Ở đây, Chúa Giêsu quỳ gối xuống trước mặt môn đệ. Thiên Chúa quỳ xuống trước mặt con người. Thiên Chúa hạ mình phục vụ con người. Thật là một cảnh tượng mà không trí óc nào có thể tưởng tượng nổi. Thật là một sáng kiến mà không có nhà phát minh nào dám ngờ tới. Chưa hết, khi Phêrô lên tiếng hỏi, Chúa Giêsu ngẩng mặt lên để trả lời. Một cảnh tượng khiến những tâm hồn kiêu căng phải vỡ ra tan nát. Thiên Chúa phải ngẩng đầu lên mới đối diện được với con người. Thiên chúa hạ mình thẳm sâu để tôn vinh con người. Thiên Chúa trân trọng con người, biến con người thành đối tượng phục vụ.

Có thứ phục vụ vì bắt buộc. Có thứ phục vụ vì yêu thương. Chẳng ai có thể bắt buộc Thiên chúa phục vụ con người. Chính tình yêu thương đã thúc đẩy Người làm điều ấy. Hãy nhìn Người nâng niu bàn chân nhân loại. Những bàn chân đã lầm đường lạc lối. Những bàn chân mang đầy thương tích. Những bàn chân bán bẩn bụi trần. Người âu yếm kỳ cọ cho sạch mọi đau thương. Người nhẹ nhàng tẩy rửa mọi vết nhơ phản bội. Người dịu dàng phủi đi lớp bụi kiêu căng. Người lặng lẽ xoá đi những dấu vết mặc cảm. Người rửa sạch đôi chân để từ nay nhân loại có thể đứng thắng lên. Người uốn nắn đôi chân để từ nay con người biết đi vào đường nay nẻo chính.

Chúa Giêsu không giải thích trước khi rửa chân cho các môn đệ. Chúa Giêsu làm rồi Người mới nói. Việc làm của Người không chỉ đi đôi mà còn đi trước lời nói. Người muốn dạy chúng ta hiểu rằng việc làm quan trọng hơn lời nói. Việc phục vụ tự nó đã là một giải thích sâu xa, dễ hiểu và có sức thuyết phục. Chính việc làm minh chứng một tình yêu chân thành tha thiết.

Chiêm ngắm Chúa rửa chân cho các môn đệ, chúng ta hiểu rằng: Thánh lễ không kết thúc ở nhà thờ mà còn phải tiếp tục trong cuộc sống. Thánh lễ ngoài cuộc đời cũng quan trọng không kém gì thánh lễ trong nhà thờ, nên cũng phải cử hành một cách trang nghiêm kính cẩn. Lễ vật dâng trên bàn thờ còn thiếu sót nếu tôi chưa dâng trong đền thờ thân xác con người lễ vật yêu mến phục vụ anh em.

Cuộc kết hiệp với Chúa trong bí tích Thánh Thể chưa trọn vẹn nếu tôi không kết hiệp với anh em trong tình yêu thương được biểu lộ trong sự phục vụ khiêm nhường. Việc giữ đạo sẽ khập khiễng nếu tôi chỉ tạo được mối liên hệ tốt với Chúa mà không có mối liên hệ tốt với anh em. Tôi sẽ không thực hành ý Chúa nếu tôi chỉ thờ phượng Thiên chúa mà không kính trọng con người. Trân trọng con người, quan tâm phục vụ anh em đó là tất cả ý nghĩa của bài học rửa chân mà chúng ta sắp cử hành theo gương Chúa Giê-su Kitô Thầy Chí Thánh.

Linh mục. Giuse Phan Cảnh

 

BÀI SUY NIỆM CHIỀU THỨ 6 TUẦN THÁNH – TAM NHẬT THÁNH

THẬP GIÁ, ĐIỂM GIAO THOA CỦA TÌNH YÊU

 

 

Cộng đoàn phụng vụ thân mến!         

Chiều thứ 6 Tuần Thánh, chúng ta được mời gọi nhìn lên Thánh giá Chúa Giêsu để cảm nếm nguồn tình yêu bất tận mà Thiên Chúa dành cho nhân loại. Thập Giá ngất cao trên đồi Thập Giá ơi. Người mong, Người mong nói gì, nói gì với đời? Người nói đến một tình yêu cao ngất muôn trùng. Người nói đến một tình yêu dâng hiến máu hồng. Người nói đã bao nghìn năm đã bao nghìn năm. Lời nói dẫu bao nghìn năm vẫn luôn vọng ngân. Người nói đến một niềm đau giăng kín mây trời. Người nói đến một vầng tim hiu hắt trên đồi. Trọn kiếp sống cho tình yêu chết cho tình yêu. Thập Giá khắc ghi lòng son Chúa thương đoàn con.

Thập giá là chữ T được tạo nên do hai thanh gỗ. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng.

Trên thập giá, Chúa Kitô chịu đóng đinh dang tay thành chữ Y. Tình yêu là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống. Cả ba chiều kích ngang, sâu, cao của thập giá đều quy tụ nơi tình yêu của Đấng chịu đóng đinh. Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại: “ Thánh Giá là chữ T. Người nằm giang tay chữ Y. Là tình yêu, yêu đến tận cùng. Yêu nhân gian chiều ngang.Yêu đời mình chiều sâu. Yêu Chúa là chiều cao. Để tình yêu luôn mãi nhiệm mầu” ( bài hát học yêu thánh giá ).

Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh. Tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha “đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên Chúa Cha, cũng là sự tự hiến cho loài người trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.

Thánh Phaolô nhấn mạnh sự tương phản chưa từng thấy trong mầu nhiệm Thập giá. Sự hạ mình sâu thẳm của Đức Giêsu Kitô “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người, tặng ban Danh hiệu vượt trên mọi Danh hiệu. Và khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, mọi gối phải bái quỳ để tôn vinh Chúa Cha và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa” ( Pl 2,6-11). Theo cái nhìn của Phaolô cũng như của Gioan, Chúa Giêsu chịu đóng đinh cũng chính là Chúa Giêsu được tôn vinh. Đó là sự tôn vinh Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, và Tình Yêu ấy đã biểu lộ rõ ràng nhất nơi Thập giá Chúa Kitô. Không nơi nào Tình Yêu của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn như nơi “con người Chúa Giêsu chịu đóng đinh”.

Ca nhập lễ ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá đã mượn lời của Thánh Phaolô trong thư Galat để hân hoan hát lên: “Niềm vinh dự của chúng ta chính là Thập Giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ Người, chúng ta được cứu độ, được sống và được phục sinh; chính Người cứu độ và giải thoát chúng ta” ( Gl 6,14 )  .

Kinh Tiền Tụng đã chú giải : “Thật vậy, xưa vì cây trái cấm, loài người chúng con phải tử vong, nay nhờ cây thập giá lại được sống muôn đời; và ma quỷ xưa chiến thắng nhờ cây trái cấm nay thảm bại vì cây thập giá của Đức Kitô, Chúa chúng con”.

Nhìn lên Thánh Giá Chúa trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta cảm nghiệm tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa dành cho nhân loại, và để mỗi chúng ta học sống yêu thương. Để sống yêu thương như Chúa, chúng ta cần có trái tim như Ngài. Trái tim ấy không chỉ đặt trên ngực để yêu thương, mà còn:

Đặt trên tay để giúp đỡ người khác.

Đặt trên mắt để nhìn thấy nỗi khổ của tha nhân, để mau mắn chạy đến với người cùng khổ.

Đặt trên miệng để nói lời an ủi với người bất hạnh.

Đặt trên tai để biết nghe lời than trách, góp ý của người khác. Đặt trên vai để biết chịu trách nhiệm và chia sẻ trách nhiệm với anh em chị em. Thân xác sẽ không thể sống được nếu không có trái tim, cũng vậy, làm người không có đức yêu thương hay không có tấm lòng, thì cuộc sống chỉ có hận thù và là mối nguy hiểm cho mọi người.

Hôm nay, chúng ta được mời gọi suy tôn Thánh Giá Chúa, nguồn ơn cứu độ cho nhân loại. Ước gì mỗi người chúng ta ý thức được rằng: mỗi lần chúng ta phạm tội, mỗi lần chúng ta làm cho người khác bị tổn thương là chúng ta cầm búa để đóng đinh Chúa vào Thánh Giá một lần nữa. 

Linh mục. Giuse Phan Cảnh

BÀI SUY NIỆM LỄ ĐÊM VỌNG PHỤC SINH

HÃY GIỮ NGỌN LỬA PHỤC SINH ĐỂ TRỞ THÀNH SỨ GIẢ NIỀM HY VỌNG

 

 

Cộng đoàn phụng vụ thân mến!

Đêm nay, chúng ta cùng hát:  “Halleluia!”. Và Hội Thánh mời gọi chúng ta hãy mừng vui lên, bởi vì Chúa đã sống lại. Nhưng phải nói rằng, chúng ta rất khó cảm nhận được niềm vui của Mùa Phục Sinh, của Đêm Vọng Phục Sinh này. Khi chúng ta mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta cảm nhận niềm vui ấy dễ dàng. Vì ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự sinh ra. Cha mẹ sinh ra con cái và người con được chào đời. Đó là niềm vui cho gia đình, cho xã hội, cho tất cả loài người. Trong Đêm Giáng Sinh, chúng ta cảm thấy mình vui một cách rất tự nhiên. Với Đêm Vọng Phục Sinh hôm nay thì chúng ta lại không có cảm nhận ấy. Phải nói rằng, cái cảm nhận về Đêm Vọng Phục Sinh này, cái cảm nhận đầu tiên không phải là cảm nhận vui mừng mà là cảm nhận của một nỗi sợ hãi.

Bài Tin Mừng năm nay là Phụng vụ năm C theo thánh Luca ( Lc 24,1-12). Thánh Luca thuật lại câu chuyện về những người phụ nữ vào buổi sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, mang theo bình dầu thơm ra xức dầu cho Chúa, bởi vì chiều hôm qua Chúa chết vào giờ muộn quá, không kịp xức dầu thơm để ướp xác Chúa. Cho nên sáng ngày thứ nhất trong tuần, các bà mới vội vã ra đi, và khi các bà ra tới tận mộ thì các bà đã cảm nhận được điều gì đó. Khi các bà ra mộ, Chúa không còn ở trong mộ nữa. Thiên Thần trấn an: “Các bà đừng sợ! Bởi vì Chúa đã sống lại rồi”. Vừa đi vừa run lẩy bẩy, kinh hoàng hết hồn hết vía. Thánh Luca đã nói với chúng ta như vậy.

Cho nên, kinh nghiệm và cảm nhận về Đêm Vọng Phục Sinh không phải là niềm vui, mà là sự sợ hãi. Tại sao lại sợ hãi? Sợ hãi là bởi vì, ở đây, con người đang đứng trước sự can thiệp lạ lùng của Thiên Chúa. Người ta sợ vì nhiều lý do. Nỗi sợ tự nhiên, đó là con người đứng trước thiên nhiên, sóng cao biển cả, bão táp thì con người thấy mình nhỏ bé quá, con người bất lực nên con người sợ. Con người sợ vì mặc cảm tội lỗi, vì những việc làm xấu, sợ tiếng lương tâm oán trách, sợ Thiên Chúa phạt. Nhưng vẫn còn nỗi sợ khác, nỗi sợ của sự thánh thiện. Nỗi sợ khi mà mình đối diện với quyền năng của Thiên Chúa. Nỗi sợ khi mà đối diện với sự can thiệp của Thiên Chúa vào trong lịch sử của nhân loại. Điều ấy đã xảy ra trong Đêm Vọng Phục Sinh này.

      Trong Đêm Vọng Phục Sinh, những người phụ nữ sợ sự can thiệp của Thiên Chúa vào trong nhân loại. Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã đi vào qui luật bình thường của con người, đó là có sinh có tử. Nhưng cho tới ngày hôm nay, dòng nhân quả, một diễn tiến tự nhiên của dòng đời đã bị cắt đứt, vì hôm nay, chính Thiên Chúa can thiệp và Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ trong cõi chết. Đứng trước mầu nhiệm cao cả này, những người phụ nữ đã sợ. Chính cái cảm nhận sợ hãi này, là bằng chứng, cho dù không đủ, nhưng là bằng chứng rất mạnh cho thấy sự can thiệp của Thiên Chúa để Chúa Giêsu sống lại. Khi Chúa Giêsu sống lại thì Chúa đã chiến thắng sự chết. Chúa đã chiến thắng đau khổ, tội lỗi và hận thù!

Trong những ngày vừa qua, chúng ta đã suy niệm về những mầu nhiệm Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể và Chúa Giêsu hiến mình trên cây Thánh Giá. Chúng ta nói rằng, Chúa Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc sống mới, một qui luật sống mới. Đó là qui luật của sự quên mình để sống cho người khác, để phục vụ cho anh chị em của mình. Tuy nhiên, tình yêu ấy đã bị phản bội, tình yêu ấy đã bị kết án. Nhưng nếu chỉ có vậy mà thôi thì không ai dại gì mà yêu thương, không ai dại gì mà hiến mình thay cho người khác. Nhưng hôm nay, chúng ta thấy câu trả lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói với chúng ta rằng: Những ai yêu thương, người ấy không bao giờ phải thất vọng. Thiên Chúa muốn khẳng định với chúng ta rằng: Thiên Chúa chiến thắng sự chết. Thiên Chúa là tình yêu đã chiến thắng hận thù. Chúa Giêsu mở đường cho chúng ta đi và ai đi theo Chúa Giêsu thì người ấy không bao giờ phải thất vọng. Đó là lời quả quyết, mạnh mẽ mà Thiên Chúa muốn nói với chúng ta trong Đêm Vọng Phục Sinh.

     Chúng ta đang sống trong một thế giới, mà người ta gọi là, thế giới của nền văn minh sự chết. Người ta sống trong hận thù, trong chiến tranh, trong bạo lực, có thể chém giết nhau bất cứ lúc nào. Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy dẫy những sự ích kỷ, những tham nhũng, những bóc lột, những chèn ép và cạm bẫy xảy ra hàng ngày trong xã hội và trên thế giới. Chúng ta đang sống trong xã hội mà người ta chỉ biết hưởng thụ, hay đi tìm khoái lạc. Một xã hội tội lỗi của cá nhân, tội lỗi của thế giới, tội lỗi của toàn thể nhân loại. Xã hội này, thế giới này, nhân loại này cứ theo qui luật bình thường như vậy thì chắc chắn sẽ đi tới tận diệt. Cuối cùng sẽ là cái chết. Đôi khi chúng ta cảm thấy thất vọng, cũng như dân Do Thái ngày xưa (Xh 14,15.15,1a), khi phía trước là biển cả, sau lưng là quân đội Ai Cập, họ cảm thấy cái chết gần kề, cảm thấy cùng đường, cảm thấy bế tắc, cảm thấy thất vọng. Nhưng chính trong sự thất vọng ấy thì Thiên Chúa đã can thiệp, đã mở đường cho dân Do Thái đi qua biển Đỏ. Đó là sự can thiệp mạnh mẽ của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh báo trước cho sự can thiệp vĩ đại hơn nữa. Thiên Chúa đã mở đường cho chúng ta đi, Chúa Giêsu đã chết nhưng đã sống lại, cũng như ngày xưa, Thiên Chúa đã dẫn đường cho dân Do Thái đi thì hôm nay Chúa Giêsu cũng dẫn đường cho chúng ta đi. Và nếu chúng ta đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng sẽ tìm thấy niềm hy vọng, giữa một thế giới đầy chết chóc và tăm tối này. Chúng ta hãy để cho Chúa dẫn mình đi, chúng ta hãy để cho Chúa thực hiện công trình, quyền năng của Người nơi cuộc đời chúng ta. Là những Kitô hữu, chúng ta phải là sứ giả của niềm hy vọng. Niềm hy vọng không phải ở nơi tiền bạc, nơi của cải vật chất. Niềm hy vọng không phải là sức mạnh của quân đội, chính trị, nhưng là niềm hy vọng của sự thật và tình yêu. Chúng ta tin vào Chúa, chúng ta hãy đi theo Chúa.

      Hôm nay, Chúa Giê su đã sống lại, Chúa mở đường cho chúng ta đi. Chúa mời gọi chúng ta đi theo con đường ấy. Trong Đêm Vọng Phục Sinh, chúng ta nhìn ngắm cây nến Phục Sinh. Đó là biểu tưởng hết sức ý nghĩa. Thế giới tăm tối này, nếu không có ánh sáng của Chúa thì vẫn chìm ngập trong bóng đêm, vẫn là tăm tối, vẫn là tội lỗi, vẫn là chết chóc. Nhưng ánh sáng của Chúa đã thắp lên để chiếu soi thế giới, chiếu soi cuộc đời của mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy nhìn lên ánh sáng của Chúa Giêsu để mà tiến bước. Ánh sáng này, ánh sáng của chân lý, ánh sáng của tình thương Phúc Âm, luôn luôn bị những cơn lốc, những cơn gió của tội lỗi tìm cách làm tắt đi. Cơn gió của trào lưu tục hóa, luôn luôn muốn thổi mạnh lên thành bão táp để làm tắt ngúm cây nến Phục Sinh, là Lời Chúa, là tình thương của Chúa. Thánh Gioan lại khẳng định, bóng tối tìm cách trấn áp ánh sáng nhưng mà không bao giờ lại có thể làm tắt được ánh sáng của Chúa Giêsu. Ánh sáng của Chúa, một khi đã được đốt lên thì chúng ta cứ tin tưởng mà bước theo Chúa. Hôm nay Chúa Giêsu đã sống lại, đó là lời bảo đảm cho chúng ta rằng Ánh sáng của Chúa Giêsu sẽ còn mãi.

        Khi Chúa Giêsu sống lại, Chúa đã đưa chúng ta sang bờ bên kia của biển Đỏ. Chúa Giêsu dẫn đưa chúng ta từ cõi chết tới cõi sống. Chúa Giêsu đã đặt thế giới này trong tình trạng được phục hồi, không bao giờ có thể chịu thua quyền lực của sự chết. Như thánh Phaolô nói: “Chúng ta đã được cùng chết với Chúa và cùng sống lại với Chúa qua bí tích Rửa tội”( Cl 2,12). Chúng ta ngồi đây, theo qui luật tự nhiên, chúng ta sẽ phải chết. Nhưng, nhờ Bí tích Rửa tội, tất cả chúng ta đã có sự sống lại của Chúa Giêsu rồi. Đức Kitô Phục Sinh đang ở trong chúng ta. Thần Khí của Thiên Chúa là chính Chúa Thánh Thần đang ở trong chúng ta. Chúng ta được đưa vào thế giới của sự sống, thế giới của ánh sáng. Hãy giữ lấy ngọn nến mà chúng ta đã thắp lên ở trong tay của mình, ngọn nến của linh hồn. Chúng ta hãy để cho Tin Mừng của Chúa chiếu soi chúng ta, và cho dù chúng ta có phải chết về phần xác, nhưng đừng để tâm hồn của chúng ta chết trong tội lỗi.

 Chúng ta hãy luôn luôn giữ ngọn nến linh hồn mình để trở thành sứ giả của niềm hy vọng. Chúng ta hãy công bố cho mọi người biết khi chúng ta theo Chúa thì chúng ta sẽ được sống. Chúng ta hãy gieo rắc niềm hy vọng trong cuộc đời đầy tăm tối, đầy lo âu, đầy hận thù, chết chóc, đầy những ích kỷ của thế giới này. Chúng ta hãy sáng lên niềm hy vọng nơi chân lý Phúc Âm. Chúa Giêsu đã sống lại, chúng ta hãy hát mừng, chỉ có người nào thực sự cảm nhận niềm vui ấy, mới có thể hát lên “Halleluia!”. Cho nên từ cảm nhận nỗi sợ hãi, chúng ta tiến tới niềm vui và cảm nhận niềm vui mừng, bởi vì Chúa đã sống lại! “Halleluia!”.

Linh mục. Giuse Phan Cảnh